Quan niệm Công giáo về chức linh mục, vốn được Công đồng Trentô xác định và được Công đồng Vaticanô II lặp lại với sự chú tâm mới mẻ đối với chứng từ của Thánh Kinh, đã rơi vào khủng hoảng trong thời hậu Công đồng. Con số lớn những người rời bỏ chức linh mục và sự suy giảm mạnh mẽ ơn gọi linh mục tại nhiều quốc gia chắc chắn không thể chỉ quy về các nguyên nhân thần học. Tuy nhiên, các nguyên nhân ngoài Giáo hội sẽ không có sức ảnh hưởng đến thế nếu nền tảng thần học của thừa tác vụ linh mục không bị làm mất khả tín nơi nhiều linh mục và người trẻ. Trong bối cảnh văn hoá mới hình thành sau Công đồng, các luận điểm xưa của cuộc Cải cách thế kỷ XVI, cùng với những thành quả gần đây của ngành chú giải Kinh thánh hiện đại – vốn lại được nuôi dưỡng bởi các tiền giả định của Cải cách – đã có được vẻ thuyết phục nào đó và thần học Công giáo đã không đủ khả năng đáp trả một cách thích đáng.

Những luận điểm đó là gì? Trước hết, có thể nêu một nhận xét về thuật ngữ phát sinh từ việc khảo sát Thánh Kinh cẩn trọng hơn. Hội thánh sơ khai khi nói về các thừa tác vụ của mình đã dùng thuật ngữ “đời” hơn là dùng những thuật ngữ thánh thiêng. Không có sự liên tục hiển nhiên giữa các thừa tác vụ này với chức tư tế theo luật Môsê. Hơn nữa, các thừa tác vụ ấy—trong một thời gian dài còn chưa được xác định rõ—mang nhiều tên gọi và hình thức khác nhau. Chỉ từ cuối thế kỷ thứ nhất trở đi, người ta mới đạt được một mức độ minh định nào đó về hình thức và nội dung của các thừa tác vụ, dù tiến trình xác định vẫn chưa kết thúc. Tuy nhiên, điều đáng chú ý là không ở nơi nào, chức năng tế tự của các thừa tác vụ ấy được nêu lên rõ ràng; chúng không bao giờ được nối kết minh nhiên với việc cử hành Thánh Thể. Việc rao giảng Tin mừng hiển hiện như chức năng chính của thừa tác Giáo hội cùng với nhiều sự phục vụ khác nhau cho đời sống cộng đoàn Kitô hữu.

Từ dữ kiện này, người ta đã rút ra một giả thuyết cho rằng các thừa tác vụ của Hội thánh non trẻ lúc đó không được nhìn theo phạm trù bí tích, mà chỉ theo phạm trù chức năng. Những nhận định ấy lại dễ dàng gắn kết với một giả thuyết khác cho rằng đức tin Kitô giáo vãn hồi thế giới phàm tục, rằng chủ ý đích thực của đức tin là loại bỏ tận gốc mọi yếu tố “thánh thiêng”—một lý thuyết nhằm triển khai trọn vẹn và áp dụng các quan điểm của Karl Barth và Dietrich Bonhoeffer về sự đối lập giữa đức tin và tôn giáo.

Không hiếm khi, nền tảng Kinh thánh cho những quan điểm này được trưng dẫn từ Thư gửi tín hữu Do Thái, nói rằng Đức Giêsu đã chịu khổ nạn “ở bên ngoài cửa thành” và Người mời gọi chúng ta “ra với Người” ở đó (Dt 13,13tt). Trái với ý hướng đích thực của những lời này—vốn diễn tả một thần học sâu xa về thập giá—người ta lại nói rằng: Vào lúc Đức Giê-su tắt thở, bức màn Đền Thờ bị xé ra; từ nay không còn phân cách giữa đền thờ và thế giới, giữa cái thánh thiêng và cái phàm hèn. Cái chết của Đức Ki-tô giữa lòng thế giới cho thấy rằng chỉ những hành vi bác ái được thực hiện giữa đời sống thường nhật mới có thể là “phụng vụ” hợp pháp duy nhất trong thời Tân Ước.

Những quan điểm rút ra từ chú giải hiện đại đó, bằng cách nào đó, lại tiền giả định những quyết định chú giải đã được hình thành trong thời Cải cách Tin Lành và nay được tạo thêm một sức mạnh mới. Chìa khoá căn bản của cách đọc Kinh thánh mới xuất hiện trong thời kỳ này, phải được tìm thấy nơi sự đối nghịch giữa “Lề luật” và “Tin mừng” được suy diễn từ thần học Phaolô. Lề luật – đã bị bãi bỏ – được đặt đối lập với Tin mừng. Chức tư tế và tế tự (hy tế) có vẻ thuộc về phạm trù Lề luật; còn Tin mừng thì được xem là biểu lộ nơi hình ảnh các ngôn sứ và việc rao giảng Lời. Vì lẽ đó, các phạm trù lề luật–chức tư tế–hy tế–phụng tự mang sắc thái tiêu cực, vì chúng dẫn con người đến “chữ viết làm cho chết” và đến “các việc làm” vốn không thể làm cho người ta nên công chính. Trái lại, bản chất của Tin mừng hệ tại việc nghe Lời và đức tin—chỉ một mình đức tin mới có thể làm cho con người nên công chính. Như thế, các hình ảnh “ngôn sứ” và “rao giảng” mới là những gì tương hợp với Tin mừng, còn “chức linh mục” thì thuộc về Lề luật và phải bị loại trừ triệt để khỏi Hội thánh của Tân Ước.

Góc nhìn này đã định hình trọn vẹn diễn tiến của chú giải Kinh thánh hiện đại và lộ rõ ở mọi điểm. Từ đó, các nhận xét về thuật ngữ đã nêu ở trên mới có sức thuyết phục mạnh mẽ. Thần học Công giáo từ sau Công đồng hầu như tiếp nhận chú giải hiện đại mà không tranh biện, lại không ý thức chìa khóa chú giải của nó, nên đã không thể trả lời những vấn nạn lớn mà khuynh hướng ấy làm phát sinh. Và như thế, cuộc khủng hoảng mà chúng ta nói đến từ đầu đã hình thành.

Trong khi đó, công trình của các thần học gia dần dà đạt đến một cái nhìn quân bình hơn về những vấn đề này. Không nên quên rằng ngay ở thế kỷ XVI, sau những xung đột ban đầu, đã xuất hiện những mầm mống của một thế quân bình mới. Việc truyền chức cho thừa tác vụ rao giảng nơi khối Thệ Phản, chỉ sau một thời gian ngắn, bắt đầu được nhìn theo lối tương tự như một bí tích. Đồng thời, mối liên kết giữa thừa tác vụ rao giảng với thừa tác vụ cử hành Thánh Thể lại một lần nữa hiện rõ. Dầu trong truyền thống các hệ phái phát sinh từ cuộc Cải cách, người ta tránh dùng thuật từ “chức linh mục” (priesthood), thì thừa tác vụ Lời như là bí tích vẫn được phục hồi theo nhiều cách khác nhau dựa trên chứng từ Tân Ước. Vì lẽ đó, đối thoại đại kết thực sự đã mở ra một nẻo đường, nhờ đó có thể xác định tốt hơn chìa khóa chú giải để hiểu đúng Thánh kinh và nhờ đó các nền tảng của học thuyết Công giáo về chức linh mục được phơi bày trong ánh sáng mới. Theo ý hướng này, tôi muốn phác thảo vắn gọn cách học thuyết ấy nổi lên cách minh nhiên từ chứng từ Kinh thánh.

1. Nền tảng của thừa tác vụ Tân Ước: Tông đồ đoàn như là tham dự vào sứ mạng của Đức Kitô

Chúng ta phải nhìn nhận tính mới mẻ của Tân Ước để hiểu Tin mừng như là Tin mừng—Tin vui mừng; đồng thời cũng cần học cách cảm nhận đúng sự duy nhất của lịch sử cứu độ trong tiến trình của nó giữa Giao ước cũ và Giao ước mới. Chính trong tính mới mẻ của mình, sứ điệp và các công trình của Đức Kitô làm nên sự viên mãn cho tất cả những gì có trước và tạo thành một trung tâm hữu hình, nơi hành động của Thiên Chúa và chúng ta gặp gỡ nhau. Nếu chúng ta tìm kiếm “cái mới” đích thực của Tân Ước, thì chính Đức Kitô hiện ra trước mắt chúng ta. Tính mới mẻ ấy không hệ tại những ý tưởng hay quan niệm mới cho bằng ở một Ngôi Vị: Thiên Chúa trở nên người phàm và lôi kéo con người về với chính Người.

Ngay cả khi đặt vấn nạn Tân Ước nói gì về “chức tư tế”, điểm khởi đầu cũng phải là Kitô học. Thời được gọi là “Tự do” (Liberal Age) đã giải thích dung mạo Đức Kitô dựa trên những tiền giả định của chính nó. Theo cách hiểu ấy, Đức Giêsu đã đối lập “đạo đức tinh ròng” với một thứ tôn giáo bị bóp méo bởi nghi lễ; Người đặt sự tự do và trách nhiệm của cá vị đối nghịch với tôn giáo mang tính cộng đoàn và tập thể. Người được khắc họa như một “Thầy luân lý” vĩ đại, Đấng giải phóng con người khỏi xiềng xích của tế tự và nghi thức, và—không qua trung gian nào khác—đặt con người đối diện một mình với Thiên Chúa theo lương tâm cá nhân. Ở nửa sau thế kỷ của chúng ta, những quan điểm ấy lại kết duyên với các ý tưởng phổ biến bởi chủ nghĩa Marx: Đức Kitô nay được mô tả như một nhà cách mạng, đứng lên chống lại quyền lực của các cơ chế biến con người thành nô lệ, và trong cuộc xung đột ấy, trước hết chống lại thói kiêu ngạo của giới tư tế; chính vì điều đó Người phải chết. Như thế, Người được nhìn chủ yếu như Đấng Giải Phóng người nghèo khỏi áp bức của kẻ giàu, người muốn thiết lập “Nước”—tức xã hội mới của những người tự do và bình đẳng.

Dung mạo Đức Kitô mà chúng ta gặp trong Kinh thánh lại rất khác. Ở đây, chúng ta chỉ có thể nêu những yếu tố trực tiếp liên quan đến vấn đề đang bàn. Yếu tố cốt yếu nơi dung mạo Đức Kitô theo các trước tác Tân Ước là tương quan độc nhất vô nhị của Người với Thiên Chúa. Đức Giêsu biết rõ Người lãnh nhận một sứ mạng trực tiếp từ Thiên Chúa; uy quyền của Thiên Chúa hoạt động nơi Người (x. Mt 7,29; 21,25; Mc 1,27; 11,28; Lc 20,2; 24,19, v.v.). Người công bố một sứ điệp Người đã lãnh từ Chúa Cha: Người được “sai đến” với một sứ vụ được Chúa Cha ủy thác.

Thánh sử Gioan trình bày rất rõ chủ đề “sứ mạng” của Người Con phát xuất từ Chúa Cha—một chủ đề thực ra cũng hiện diện trong cả ba Tin mừng Nhất Lãm. Một “khoảnh khắc nghịch lý” của sứ mạng này hiện rõ trong công thức của Gioan—điều thánh Augustinô đã chú giải rất sâu sắc: “Giáo huấn của tôi không phải là của tôi…” (7,16). Đức Giêsu không có gì “là của riêng mình” ngoại trừ Chúa Cha. Giáo huấn của Người không do Người mà có, bởi vì toàn thể hiện hữu của Người—nói cách nào đó—là Con bởi Cha và quy hướng về Cha. Nhưng cũng chính vì thế, vì Người không giữ điều gì “của riêng”, nên mọi sự của Chúa Cha cũng thuộc về Người: “Tôi và Cha là một” (10,30). Việc Người trao lại trọn vẹn hữu thể và hoạt động của mình cho Cha—một hành vi nhờ đó Người “không tìm ý mình” (5,30)—làm cho Người khả tín, vì lời của Chúa Cha chiếu tỏa qua Người như ánh sáng. Ở đây mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa bừng sáng—đồng thời là khuôn mẫu cho chính đời sống chúng ta.

Chỉ từ trung tâm Kitô học này, ta mới hiểu được thừa tác vụ của các Tông đồ—nơi đó Giáo hội Đức Kitô lần theo cội nguồn của chức linh mục. Ngay từ đầu đời rao giảng công khai, Đức Giêsu đã thiết lập hình tượng mới là Nhóm Mười Hai được tuyển chọn—một hình tượng tiếp tục sau Phục Sinh nơi thừa tác vụ của các Tông đồ, nghĩa là của “những kẻ được sai đi”. Điều quan trọng cho vấn đề của chúng ta là: Đức Giêsu ban quyền của Người cho các Tông đồ theo cách làm cho thừa tác vụ của họ, nói như thế, trở thành sự tiếp nối sứ mạng của chính Người. Người nói với Nhóm Mười Hai: “Ai đón nhận anh em là đón nhận Thầy” (Mt 10,40; x. Lc 10,16; Ga 13,20). Có thể nêu nhiều bản văn khác, nơi Đức Giêsu thông ban quyền năng cho các môn đệ: Mt 9,8; 10,1; 21,23; Mc 6,7; 13,34; Lc 4,6; 9,1; 10,19. Tính liên tục giữa sứ mạng của Đức Giêsu và sứ mạng của các Tông đồ lại được Tin mừng thứ tư minh họa rất rõ: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em” (Ga 20,21; x. 13,20; 17,18).

Ý lực của câu này trở nên hiển nhiên nếu ta nhớ lại điều đã nói ở trên về cấu trúc sứ mạng của Đức Giêsu. Như ta đã thấy, chính bản thân Đức Giêsu—được sai đi trong toàn thể ngôi vị của Người—thực sự là “sứ mạng” và là “tương quan”: từ Cha và hướng về Cha. Trong ánh sáng ấy, tầm quan trọng lớn của sự song song sau đây hiện ra: “Người Con không thể tự mình làm điều gì” (Ga 5,19–30). “Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5).

Cái “không thể làm gì” này—điều các môn đệ thông phần với Đức Giêsu—đồng thời diễn tả cả sức mạnh lẫn sự yếu đuối của thừa tác vụ Tông đồ. Tự mình, bằng sức riêng, họ không thể làm bất cứ điều gì mà một Tông đồ phải làm. Làm sao họ có thể, nhân danh chính mình, nói: “Tôi tha tội cho anh”? Làm sao họ có thể nói: “Này là Mình Thầy”? Làm sao họ có thể đặt tay và nói: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”? Không điều nào trong những điều cấu thành hoạt động Tông đồ lại được thực hiện “bởi uy quyền riêng” của bản thân. Nhưng chính việc “tước quyền sở hữu” ngay cả đối với năng quyền của mình lại là một cách thông hiệp với Đức Giêsu—Đấng hoàn toàn “bởi Cha”: với Người thì “mọi sự”, không có Người thì “chẳng là gì”. Cái “nihil posse” (không thể làm được gì) của họ lôi kéo họ vào sự hiệp thông sứ mạng với Đức Giêsu. Một thừa tác vụ như thế—nơi đó con người làm và ban phát nhờ một sự thông ban thần linh những điều mình không bao giờ có thể tự làm và tự ban—được truyền thống Hội thánh gọi là “bí tích”.

Nếu theo thói quen của Giáo hội, việc truyền chức vào thừa tác vụ linh mục được gọi là một “bí tích”, thì ý nói như sau: Người này tuyệt nhiên không thi hành những chức năng mà mình vốn xuất sắc nhờ khả năng tự nhiên, cũng không làm những việc hợp sở thích hay “có lợi” nhất cho bản thân. Trái lại, người lãnh nhận bí tích được sai đi để trao ban điều mà tự sức riêng mình họ không thể trao; họ được sai đi để hành động nhân danh một “Đấng Khác”, trở nên khí cụ sống động của Đấng ấy. Bởi thế, không ai có thể tự tuyên bố mình là linh mục; cũng vì lẽ đó, không một cộng đoàn nào có thể, bằng nghị quyết riêng, cất nhắc ai vào thừa tác vụ này. Chỉ từ bí tích—thuộc về Thiên Chúa—người ta mới lãnh nhận chức linh mục. Sứ mạng chỉ có thể được lãnh từ Đấng sai đi, tức là Đức Kitô nơi bí tích của Người, nhờ đó một người trở nên tiếng nói và đôi tay của Đức Kitô giữa trần thế. Sự trao hiến chính mình, nghĩa cử từ bỏ và quên mình này không hủy diệt con người; trái lại, nó dẫn tới trưởng thành nhân linh đích thực, vì đồng hình đồng dạng với mầu nhiệm Ba Ngôi và làm cho hình ảnh theo đó ta được dựng nên được bừng sống. Bởi ta được dựng nên theo hình ảnh Ba Ngôi, ai mất sự sống mình thì sẽ tìm lại được.

Tuy vậy, ở đây ta đã đi trước đôi chút. Trong khi tiến bước, ta đã đạt được mấy kết luận rất quan trọng. Theo các sách Tin mừng, chính Đức Kitô đã trao lại cấu trúc cốt yếu của sứ mạng Người cho các Tông đồ, cho họ quyền năng của Người và liên kết họ với quyền năng ấy. Sự liên kết với Chúa này—nhờ đó một người lãnh năng quyền để làm điều mình tự sức không thể làm—được gọi là bí tích. Sứ mạng mới được thiết lập qua việc tuyển chọn Nhóm Mười Hai có bản chất bí tích. Như thế, cấu trúc này tuôn chảy từ trung tâm của sứ điệp Kinh thánh.

Rõ ràng, thừa tác vụ do Đức Kitô thiết lập là hoàn toàn mới, không hề được suy diễn từ Cựu Ước, nhưng phát sinh từ chính Đức Giêsu Kitô với quyền năng mới mẻ. Thừa tác vụ bí tích của Hội thánh diễn tả tính mới của Đức Kitô và sự hiện diện của Người trong mọi chặng của lịch sử.

2. Kế vị Tông đồ

Sau phần trình bày vắn tắt về nguồn gốc và hạt nhân của thừa tác vụ mới được thiết lập trong Đức Kitô, ta nêu câu hỏi: Tất cả những điều này được đón nhận thế nào trong thời Tông đồ? Và nhất là: Việc chuyển tiếp từ thời Tông đồ sang hậu Tông đồ đã diễn tiến ra sao? Nói cách khác: Ta nhìn thấy trong Tân Ước phản ảnh của kế vị Tông đồ—là cột trụ thứ hai của học thuyết Công giáo về chức linh mục Tân Ước sau nền tảng Kitô học—như thế nào?

Ta có thể xử lý câu hỏi thứ nhất ngắn gọn, vì chứng từ của thánh Phaolô (trước hết) đã khá minh nhiên về điểm này. Cái nhìn của ngài về chức vụ Tông đồ hiện ra rất rõ trong lời lừng danh ở 2 Cr 5,20: “Vậy, nhân danh Đức Kitô, chúng tôi làm sứ giả, như thể Thiên Chúa dùng chúng tôi mà khuyên nhủ anh em. Nhân danh Đức Kitô, chúng tôi nài xin: Anh em hãy hoà giải với Thiên Chúa.” Thiên Chúa khuyên nhủ qua vị Tông đồ là sứ giả của Đức Kitô. Ở đây lộ rõ bản tính của thừa tác vụ Tông đồ mà ta đã học được là cốt yếu của “bí tích”: nói và hành động không nhân danh mình, nhưng từ uy quyền Thiên Chúa. Cấu trúc này lại xuất hiện nơi lời Phaolô: “Với tư cách là người phục vụ Thiên Chúa, chúng tôi tự tiến cử mình trong mọi sự” (2 Cr 6,4).

Cốt tuỷ của thừa tác vụ Tông đồ cũng được tóm lại nơi Phaolô khi ngài tự tin nói về “thừa tác vụ hoà giải” được trao phó cho ngài (2 Cr 5,18). Hòa giải với Thiên Chúa phát sinh từ thập giá Đức Kitô, vì thế nó mang bản chất “bí tích”. Phaolô tiền giả định rằng nhân loại đang sống trong tình trạng “xa lạ” với chính mình (Êp 2,12). Chỉ bằng cách kết hợp với tình yêu chịu đóng đinh của Đức Giêsu Kitô, con người mới có thể vượt thắng sự tha hoá khỏi Thiên Chúa và khỏi chính mình, và như thế đạt tới “hoà giải”. Tiến trình hòa giải ấy xảy ra trên thập giá Đức Kitô. Cái chết của Đức Kitô, như một biến cố lịch sử, đã qua đi; nó trở nên hiện tại với chúng ta trong “bí tích”. Ở 1 Cr, Tông đồ cho thấy vai trò hết sức hệ trọng của các bí tích—Rửa tội và Thánh Thể—trong tiến trình này, cùng với Lời hoà giải đánh thức đức tin và ban cho ta một sự sinh hạ mới.

Dưới ánh sáng những nhận định này, thật rõ ràng là thừa tác vụ Tông đồ trong Kinh thánh được chính các Tông đồ phân biệt rành rẽ với các ân huệ chung của đời sống Kitô hữu. Sự khác biệt chuyên biệt ấy hiện lên rất minh bạch khi Phaolô nói trong Thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô: “Người ta hãy coi chúng tôi như đầy tớ của Đức Kitô và là những người quản lý các mầu nhiệm của Thiên Chúa” (1 Cr 4,1).

Sự khác biệt riêng này một cách lô-gích hàm ngụ quyền của Tông đồ đối với cộng đoàn, điều mà ngài nhiều lần diễn tả bằng những hạn từ mạnh mẽ; chẳng hạn, ngài hỏi các tín hữu Côrintô: “Tôi sẽ đến với anh em bằng roi vọt, hay bằng tình thương mến và tinh thần hiền hoà?” (1 Cr 4,21). Dựa trên uy quyền ấy, vị Tông đồ thậm chí có thể áp dụng vạ tuyệt thông, “để thần trí được cứu trong Ngày của Chúa Giêsu” (1 Cr 5,5). Dung mạo Tông đồ được trình bày như thế không hề có điểm chung nào với thứ “vô trật tự thần khí” (pneumatic anarchy) mà một số thần học gia đương thời cố gắng suy diễn từ Thư 1 Côrintô và coi đó là hình ảnh chân thật của Hội thánh.

Từ phân tích của chúng ta, rõ ràng chứng từ của thánh Phaolô về thừa tác vụ Tông đồ hoàn toàn hòa hợp với điều chúng ta đã thấy trong các Tin mừng: nơi “thừa tác vụ Tân Ước” (2 Cr 3,6) mà ta đang nói đến, ta nhận ra cùng một cấu trúc bí tích được tỏ lộ qua lời của Chúa: Tông đồ hành động với uy quyền không phải của mình, mà là uy quyền của Đức Kitô; không phải như một thành viên đơn thuần của cộng đoàn, nhưng như người đứng trước cộng đoàn, nhân danh Đức Kitô để ngỏ lời với cộng đoàn. Cấu trúc đối thoại này thuộc về bản chất của mạc khải: Đức tin không phải là điều con người tự mình nghĩ ra; con người không tự biến mình thành Kitô hữu nhờ suy niệm riêng hay nhờ chính trực luân lý. Hoán cải đức tin luôn đến từ bên ngoài; đó là ân ban luôn đến từ một Đấng Khác, từ Đức Kitô, Đấng đi bước trước để gặp gỡ chúng ta. Nơi nào “tính từ-bên-ngoài thần linh” này bị che mờ, thì một cấu trúc cốt yếu của đức tin Kitô giáo lâm nguy.

Bất cứ cộng đoàn nào tự thiết lập mình như là Giáo hội hay cộng đoàn mang tính-giáo-hội mà lại phá vỡ mầu nhiệm đối thoại của mạc khải và ân sủng như là quà tặng—luôn được lãnh nhận từ Đấng Khác, từ bên ngoài—thì chính điều đó đã huỷ hoại nền tảng. Trong mọi bí tích, ân huệ của Thiên Chúa và việc con người đón nhận ân huệ ấy đứng đối diện nhau. Cùng một cấu trúc cũng áp dụng đối với Lời Thiên Chúa: đức tin không phát sinh từ đọc nhưng từ nghe; việc rao giảng Lời bởi người được sai đi thuộc về cấu trúc của hành vi đức tin.

Giờ ta đến câu hỏi thứ hai: Thừa tác vụ của các Tông đồ có tiếp tục sau khi các ngài qua đời theo một “kế vị Tông đồ” không, hay chức vụ này chỉ là độc nhất vô nhị và chấm dứt cùng với cái chết của các Tông đồ? Khi tìm câu trả lời cho vấn đề gây nhiều tranh luận này, trước hết ta nên lưu ý rằng ý nghĩa của thuật ngữ “Tông đồ” thời Hội thánh sơ khai còn khá rộng. Chỉ đến thần học của thánh Luca, vào cuối thế hệ Kitô hữu thứ nhất, tước hiệu này mới được dành riêng cho Mười Hai người do Chúa tuyển chọn. Bấy giờ có những thừa tác vụ khác nhau xuất hiện mà chưa định hình rõ ràng. Ta gặp thấy những thừa tác vụ vượt quá ranh giới của một cộng đoàn địa phương—chẳng hạn ngôn sứ và thầy dạy.

Mặt khác, ta cũng thấy các chức vụ phục vụ Giáo hội địa phương. Giữa các Kitô hữu xuất thân từ truyền thống Do Thái, những người giữ các chức vụ này được gọi là “presbyteroi” (kỳ mục); còn nơi Giáo hội phát sinh từ thế giới dân ngoại, ta gặp các “giám mục và phó tế” lần đầu trong Thư gửi tín hữu Philípphê (Pl 1,1).

Từng bước một, từ những mầm khởi đầu ấy, đã hình thành một cấu trúc thừa tác vụ ngày càng rõ nét, và đến cuối thời Tông đồ thì đạt đến một mức thành tựu sơ khởi. Sự trưởng thành đang xuất hiện này được minh chứng trước hết bởi hai bản văn nổi tiếng của Tân Ước mà tôi muốn lược bàn. Trước hết, cần giải thích bài diễn từ của thánh Phaolô nói với các kỳ mục miền Tiểu Á. Bài này được ngỏ tại Milêto và trong tường thuật của thánh Luca, hiện ra như chúc thư của Tông đồ. Trong những lời được truyền lại ở đây, nguyên tắc kế vị Tông đồ được xác lập minh nhiên. Theo truyền thống của thánh Luca, vị Tông đồ nói: “Anh em hãy lo cho mình và cho toàn thể đoàn chiên mà Thánh Thần đã đặt anh em làm người coi sóc; hãy chăn dắt Hội thánh của Thiên Chúa, Hội thánh mà Người đã mua bằng chính máu của mình” (Cv 20,28).

Ở đây cần lưu ý nhiều yếu tố. Trước hết, hai khái niệm vốn đến lúc này chưa được nối kết—tức là “presbyter” (kỳ mục/ linh mục) và “bishop” (giám mục)—được đặt ngang hàng; như thế, truyền thống của các Kitô hữu gốc Do Thái và truyền thống của các Kitô hữu đến từ dân ngoại hội tụ, và được giải thích như một thừa tác vụ duy nhất trong kế vị Tông đồ.

Chính Thánh Thần đưa người ta vào thừa tác vụ này—một thừa tác vụ không hề phát xuất từ sự ủy nhiệm của cộng đoàn, nhưng là ân ban của Thiên Chúa, Đấng nhờ Thần Khí của Người “thiết lập các giám mục”. Bởi vì ân ban này được trao bởi Thần Khí, nó mang phẩm giá “bí tích”. Như thế, bổn phận của các Tông đồ chăn dắt đoàn chiên của Đức Kitô được tiếp nối. Cấu trúc Tông đồ quy chiếu chúng ta về mầu nhiệm Đức Kitô, Mục tử đích thực, Đấng đã mua đoàn chiên bằng chính máu mình. Trong những lời này, không chỉ truyền thống của Kitô hữu Do Thái và dân ngoại giao thoa, mà nhất là—và điều này còn hệ trọng hơn—thừa tác vụ của linh mục và giám mục, xét theo bản chất thiêng liêng của mình, được tỏ ra đồng nhất với thừa tác vụ của các Tông đồ. Thánh Luca phân biệt căn tính cốt yếu này—làm thành nguyên tắc kế vị Tông đồ—bằng một khác biệt hình thức: vì ngài chỉ dành danh xưng “Tông đồ” cho Nhóm Mười Hai, nên ta có thể phân biệt giữa tính độc nhất của chức vụ nguyên thủy và tính thường hằng của sự kế vị.

Theo nghĩa này, thừa tác vụ của các kỳ mục và giám mục khác với sứ mạng của Nhóm Mười Hai. Kỳ mục/ giám mục là những người kế vị, còn các Tông đồ thì không có người kế vị theo nghĩa ấy. Trong cấu trúc của mạc khải và Giáo hội vừa có một yếu tố “một lần là đủ”, lại vừa có một yếu tố “mãi mãi”. Quyền năng Đức Kitô trao để hòa giải, chăn dắt và giảng dạy thì tiếp tục nguyên vẹn nơi những người kế vị; nhưng họ chỉ là người kế vị đích thực nếu “chuyên cần nghe giáo huấn của các Tông đồ” (Cv 2,42).

Những nguyên tắc được trình bày trong bài diễn từ tại Milêto—ngỏ với các kỳ mục—cũng được nêu lên trong Thư thứ nhất của thánh Phêrô (1 Pr 5,1–4): “Vậy, tôi khuyên các kỳ mục trong anh em, tôi là đồng kỳ mục, là chứng nhân những đau khổ của Đức Kitô, đồng thời là kẻ được thông phần vinh quang sẽ tỏ hiện: Hãy chăn dắt đoàn chiên của Thiên Chúa đã trao phó cho anh em; đừng miễn cưỡng nhưng tự nguyện theo ý Thiên Chúa; đừng vì lợi lộc đê hèn, nhưng hết lòng; đừng thống trị những người đã giao phó cho anh em, nhưng làm gương mẫu cho đoàn chiên. Khi Vị Mục Tử Tối Cao xuất hiện, anh em sẽ lãnh triều thiên vinh quang không hề tàn úa.” Ngay những lời mở đầu của lời khuyên Tông đồ này đã diễn tả mối đồng nhất giữa thừa tác vụ Tông đồ và thừa tác vụ linh mục/ kỳ mục có tầm quan trọng lớn: Tông đồ tự xưng là “đồng kỳ mục”, qua đó thiết lập mối liên kết thần học giữa thừa tác vụ của các Tông đồ và thừa tác vụ của các kỳ mục.

Nền thần học về Tông đồ vụ mà chúng ta đã khảo sát ở phần một nay được chuyển vị sang chức linh mục (presbyterate); và như thế, một nền thần học Tân Ước đích thực về chức linh mục được hình thành. Khi tự xưng là đồng kỳ mục với các kỳ mục, Tông đồ nhìn nhận rằng họ được thiết lập trong cùng một thừa tác vụ như ngài; và nhờ đó, ngài xác lập minh nhiên nguyên tắc kế vị Tông đồ.

Một khía cạnh nữa, cũng rất quan trọng để trả lời cho vấn nạn của chúng ta, có thể thấy trong đoạn văn ngắn này. Cũng như trong bài diễn từ ở Milêto đã nói trên, ở đây bản chất của chức vụ Tông đồ được tóm gọn trong động từ: “chăn dắt”—thuật ngữ lấy từ hình ảnh mục tử. Ý nghĩa của cách nói này được soi sáng bởi thực tế: cuối chương 2 (2,25), Tông đồ gọi Chúa là “mục tử và giám mục linh hồn anh em”. Ở chương 5, ngài vẫn theo cùng một lối nói khi gọi Đức Kitô là “Vị Mục Tử Tối Cao”. Tông đồ—ý thức về ngữ nguyên của từ “giám mục” (episkopos: người canh giữ, trông coi, chăm lo)—thấy ý nghĩa ấy trùng khớp với từ “mục tử”. Như thế, danh xưng “giám mục”—vốn trước đây mang sắc thái đời—bắt đầu quy chiếu về Đức Kitô Mục Tử, và đồng thời một thuật ngữ Kitô giáo mới xuất hiện cùng với một “tính thánh thiêng” mới của đức tin Kitô giáo. Cũng như danh xưng “đồng kỳ mục” nối kết các Tông đồ với những người kế vị là các kỳ mục, thì danh xưng “giám mục” lại quy các đấng kế vị ấy về Đức Kitô và mặc khải nền tảng Kitô học của thừa tác vụ giám mục và linh mục. Vì thế, có thể nói rằng, vào cuối thời Tông đồ, ngay trong các trước tác Tân Ước, đã xuất hiện một nền thần học minh nhiên về chức linh mục Tân Ước. Thần học này được trao phó cho bàn tay trung tín của Hội thánh và cấu thành hạt nhân bất khả nhượng của mọi thần học về chức linh mục Kitô giáo cho đến muôn đời.

3. Chức tư tế phổ quát và chức tư tế thừa tác — Cựu Ước và Tân Ước

Để kết lại suy tư của chúng ta, cần bàn đến tương quan giữa chức vụ tư tế mới—phát sinh từ sứ mạng của Đức Kitô—với chức tư tế của toàn thể tín hữu. Trong Tân Ước, ý niệm tư tế phổ quát (của các tín hữu) được nêu ở hai nơi: trong giáo lý khai tâm Rửa Tội xưa lưu lại trong Thư thứ nhất của thánh Phêrô, và trong lời chào gửi bảy Giáo hội ở phần đầu Sách Khải Huyền (1 Pr 2,9; Kh 1,6). Cách diễn đạt về tư tế phổ quát trong các bản văn này được rút từ Sách Xuất Hành (19,6). Bối cảnh là lời phán của Thiên Chúa: trên núi Sinai, Thiên Chúa nói với Môsê, đề nghị Giao Ước với dân Israel, để họ trở nên cơ nghiệp của Thiên Chúa và trở thành “một vương quốc tư tế” giữa chư dân. Là Dân Tuyển Chọn, họ được gọi làm nơi chốn của việc thờ phượng chân thật, đồng thời làm tư tế và Đền Thờ cho toàn thế giới. Giáo lý khai tâm được lưu truyền trong Thư thánh Phêrô chuyển ơn gọi ấy của Dân Giao ước cũ sang cho những người đã chịu Phép rửa, như thế khẳng định rằng các Kitô hữu, nhờ Rửa tội, được thông phần vào đặc ân của Dân Thiên Chúa.

Điều đã xảy ra trên núi Sinai được hiện tại hoá cách mới mẻ trong Bí tích Rửa tội. Giáo hội Đức Kitô, trong toàn thể mình, là Đền Thờ sống động nơi Thiên Chúa ngự trị và được thờ phượng cách phải lẽ. Nhờ thừa tác vụ của Giáo hội, thế giới được quy tụ để thờ phượng Thiên Chúa chân thật. Thánh Phaolô cũng nói tương tự theo cách khác trong Thư gửi tín hữu Rôma, nơi chính ngài tự xưng là “tư tế-phụng sự” (leitourgon) của Đức Kitô Giêsu giữa chư dân, “thi hành tác vụ tư tế” (hierourgounta) cho Tin mừng của Thiên Chúa, “hầu cho lễ phẩm (hē prosphora) là các dân ngoại trở nên được chấp nhận, được thánh hoá trong Thánh Thần” (Rm 15,16).

Như thế, chức tư tế phổ quát của người đã chịu Rửa Tội—hệ tại việc họ được đưa vào lịch sử Giao Ước của Thiên Chúa, khởi đi từ Sinai và được đổi mới nơi thập giá Đức Kitô—không hề đối lập với chức tư tế thừa tác, cũng như tư cách tư tế của toàn dân Israel xưa không bao giờ bị đặt đối chọi với các hàng tư tế của họ. Từ những nhận định này cũng thấy rõ theo nghĩa nào thừa tác vụ kế vị Tông đồ là một điều thật sự mới mẻ, và theo nghĩa nào tính mới mẻ Kitô giáo ấy hội tụ các hình ảnh tiền chuẩn của Cựu Ước. Một đàng, thừa tác vụ Tông đồ của Giáo hội là mới, bởi vì Đức Kitô là Đấng Mới, và từ lời nói, đời sống, cái chết của Người mà thừa tác vụ này tuôn trào. Đàng khác, Đức Kitô, Đấng làm cho mọi sự nên mới, đồng thời kiện toàn mọi hình bóng xuyên suốt lịch sử dẫn về Người. Bởi thế, chức tư tế mới của các Tông đồ Đức Giêsu Kitô và của những người kế vị các ngài mang trong mình tất cả những gì đã được hàm chứa cách ngôn sứ trong Cựu Ước.

Điều này trở nên rất sáng tỏ nếu ta xét đến công thức mà John Colson, sau khi phân tích cẩn trọng các nguồn, đã dùng để xác định bản chất của chức tư tế Cựu Ước: “Chức năng cốt yếu của các tư tế (kohanim/hiereis) là: giữ cho dân luôn ý thức về phẩm tính tư tế của mình và lao tác để dân sống đúng phẩm tính ấy và tôn vinh Thiên Chúa bằng toàn thể hiện hữu của mình.”

Sự cận kề giữa công thức này và lời thánh Phaolô vừa nêu là điều hiển nhiên. Tuy nhiên, sinh lực truyền giáo mới vốn riêng có của chức tư tế Kitô giáo phát sinh từ thực tại là: Đức Kitô, trên thập giá, đã phá đổ bức tường ngăn cách (Êp 2,14), kéo lại gần—nhờ máu Người—những ai đã từng xa cách (x. Êp 2,15). Bởi đó, chức tư tế Tân Ước có mục đích này: để toàn thế giới trở nên Đền Thờ và lễ tế đẹp lòng Thiên Chúa, hầu sau hết, “Thiên Chúa là mọi sự trong mọi sự” (x. 1 Cr 15,28).

4. Một vài kết luận về thừa tác vụ linh mục hôm nay

Việc áp dụng các nền tảng Kinh thánh của chức tư tế thừa tác vào đào tạo linh mục trong hoàn cảnh hôm nay là chủ đề sẽ được Thượng Hội đồng bàn thảo. Tôi không thể cũng không muốn đi trước các kết luận ấy. Tôi chỉ xin mạo muội nêu vài gợi ý vắn tắt. Chúng ta đã thấy chức linh mục Tân Ước, vốn xuất hiện trước tiên nơi các Tông đồ, tiền giả định một sự hiệp thông đích thực với sứ mạng của Đức Giêsu Kitô. Người trở nên linh mục được tháp ghép vào sứ mạng của Người.

Chính vì thế, một tương quan cá vị thân mật với Đức Kitô là nền tảng cho đời sống và thừa tác vụ linh mục. Mọi chương trình đào tạo linh mục đều phải quy hướng về việc nuôi dưỡng tương quan này. Linh mục phải là người quen biết Đức Giêsu cách thâm sâu, đã gặp gỡ Người và học biết yêu mến Người. Vì vậy, linh mục phải là người cầu nguyện, là người thật sự “thiêng liêng”. Không có chất liệu thiêng liêng vững mạnh, người ấy không thể bền đỗ trong sứ vụ. Từ mầu nhiệm Đức Kitô, linh mục cũng phải học trong đời sống của mình đừng tìm mình, đừng mưu cầu thăng tiến bản thân; nhưng biết hiến dâng đời mình cho Đức Kitô và cho đoàn chiên.

Lối sống như thế trái với khuynh hướng tự nhiên của ta; nhưng dần dần, sẽ hiển lộ rằng chỉ ai có khả năng quên mình mới thật sự tự do. Người phục vụ Đức Kitô sẽ tự thân cảm nghiệm rằng “kẻ này gieo, người kia gặt” (x. Ga 4,36). Người ấy không cần đi tìm thành công để rồi nương tựa vào chính mình. Vì làm việc cho Chúa, người ấy phó dâng kết quả cho Chúa, và với niềm hoan lạc trong Thần Khí, kí thác mọi ưu tư vào tay Chúa. Khi tìm thành công cho riêng mình, chức linh mục bắt đầu hiện ra như một gánh nặng vượt sức, và hệ quả tất yếu là những gánh nặng quá sức đè trên vai ta. Nhưng Đức Kitô mang lấy chúng ta trong đức tin; và từ sự hiệp nhất với Đức Kitô, một niềm vui bất khuất phát sinh—niềm vui đến từ chiến thắng của Đức Kitô, Đấng đã thắng thế gian (Ga 16,33) và ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế (Mt 28,20).

Từ hiệp thông thâm sâu với Đức Kitô cũng tự nhiên nảy sinh sự thông phần vào tình yêu của Người đối với con người, vào ý muốn cứu độ và nâng đỡ họ. Ai biết Đức Kitô từ bên trong thì ước ao thông truyền cho người khác niềm vui ơn cứu chuộc vốn đã mở ra cho mình nơi Chúa. Mục vụ chảy trực tiếp từ hiệp thông tình yêu này, và ngay cả giữa cảnh khó, vẫn luôn được nuôi dưỡng bởi động lực ấy và trở nên viên mãn đời sống.

Yêu thì muốn biết. Bởi thế, tình yêu chân thật dành cho Đức Kitô cũng biểu lộ qua ý chí muốn biết Người và mọi điều liên quan tới Người. Vì tình yêu Đức Kitô tất yếu trở thành tình yêu con người, nên đào tạo cho thừa tác vụ của Đức Kitô cũng bao hàm đào luyện các nhân đức nhân bản. Vì yêu Người là muốn biết Người, nên ý chí học hỏi chăm chỉ, cẩn trọng là dấu chỉ của ơn gọi vững vàng. Bởi Đức Kitô không bao giờ đơn độc, nhưng đến để quy tụ con người vào Nhiệm Thể của Người, nên tình yêu đối với Giáo hội tất yếu đi kèm với tình yêu Đức Kitô. Đức Kitô đã muốn đến với chúng ta trong cộng đoàn của Giáo hội Người. Trong lòng nhiệt thành yêu mến Giáo hội của một người, tương quan của người ấy với chính Chúa được tỏ lộ là thân mật và vững bền.

Tôi xin kết thúc bằng lời của Thánh Giáo hoàng Grêgôriô Cả, trong đó ngài, dựa trên hình ảnh Cựu Ước, chỉ ra mối liên hệ thiết yếu giữa đời sống nội tâm và thừa tác vụ:

“Những con sông của các thánh nhân—là những dòng tưới gội mảnh đất khô cằn của con tim xác thịt—sẽ cạn khô rất nhanh, nếu ý hướng lòng trí họ không chuyên cần trở về nguồn mạch từ đó họ tuôn chảy. Nếu họ không trở về bên trong với cõi lòng, và khắng khít với Đấng Tạo Hoá bằng dây ràng của những ước muốn thánh thiện, thì lưỡi sẽ khô cạn. Nhưng họ luôn trở về bên trong nhờ tình yêu; và những gì họ tuôn đổ ra nơi công khai, khi làm và nói, thì họ kín múc trong thầm lặng từ mạch suối của tình yêu. Nhờ yêu, họ học biết điều họ rao giảng qua giáo huấn.”

(Bài giảng trên Êdêkien, quyển I, bài 5,16; PL 76, 828B).

Chuyển ngữ: Lm. Alphongso Phạm Hùng

Nguồn: tonggiaophanhanoi.org