CÁC BÀI SUY NIỆM LỄ GIÁNG SINH
2020Lời Chúa:
Lễ Đêm: Is 9, 2-4. 6-7; Tt 2, 11-14; Lc 2, 1-14
Lễ Rạng Đông: Is 62, 11-12; Tt 3, 4-7; Lc 2, 15-20
Lễ Ban Ngày: Is 52,7-10; Dt 1,1-6; Ga 1,1-18
- Gia đình
- Con người – Lc 2,1-20
- Không nhà không cửa
- Giáng Sinh: Mầu Nhiệm Của Lòng Thương Xót
- Bệnh Giêsu
- Bài giảng Lễ Giáng Sinh của ĐTC. Gioan Phaolô II
- Bài thánh ca hát mừng Chúa Giáng sinh – Lc 2,1-14
- Bài giảng của ĐTC Phanxicô
- Noel! Ngày lễ Hòa Bình – Thiên Phúc
- Ánh sáng rạng ngời – Ga 1,1-14
- Ôn cố tri tân – Lm JP. Vũ Minh
- Ánh Sáng đã đến thế gian – Anmai
- Ba quả táo – Lm Giuse Nguyễn Hữu An
- Chúa tìm gì nơi ta? (Lc 2, 1-14)
- Lòng nhân ái thực sự (Lc 2, 1-14)
- “Emmanuel, Thiên Chúa Ở Cùng Chúng Ta”
- Vì Ngài Ở Với Chúng Ta – Lc 2,1-14
- Bài giảng của ĐTGM Phaolô Bùi Văn Đọc
- Bài giảng Lễ Đêm Giáng Sinh
- Đánh mất cơ hội ngàn vàng (Lc 2, 1-14)
- Loài người Chúa thương
- Suy niệm của Lm Giacobe Tạ Chúc
- Verbum Dei – Lời Thiên Chúa ở giữa chúng ta
- Ngôi Lời là ánh sáng thật
- Những điều bất ngờ
- Vinh danh Thiên Chúa trên trời – Lc 2,1-14
- Đêm Ánh Sáng – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
- Các mục đồng, những chứng nhân đầu tiên
- Noel: Lễ nhập cuộc – ĐGM. Vũ Duy Thống
- Suy niệm của R. Gutzwiller – Lc 2, 1-20
- Sứ điệp vinh quang và bình an – Lc 2,1-14
- Ngạc nhiên
- Chiêm ngắm Mầu nhiệm Giáng Sinh
- Đêm Thánh
- NCYT/48 – NOEL: Tình bạn
- GLCN/A/36 – NOEL: Hữu hình
- NMS/16 – NOEL: Lễ vật dâng Chúa
- MNS/18 – NOEL: Đổi đời
- SLC- Đêm An Bình
- Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương
- Chiêm ngắm Ngôi Lời
- Suy niệm của Lm. Trương Đình Hiền
- Sức mạnh – Lc 2,1-20
- Chuẩn bị chỗ cho niềm vui
- Thiên Chúa làm người vì chúng ta – Noel Quesson
- NOEL: Yêu thương
- Vinh danh
- Ai thực sự mừng lễ Chúa Giáng Sinh
- Lễ Giáng Sinh – JKN
- Tìm kiếm
- Món quà vô giá
- Lời ngỏ của Tình Yêu – Ga 1,1-18
- Ngôi Lời đã trở nên người phàm – Ga 1,1-8
- Đừng thờ lầm – Ga 1, 1-18
- Nụ hôn nồng nàn của Thiên Chúa
- Ánh sáng nào soi chiếu trong ta? (Ga 1,1-18)
- Tôi loan báo cho anh em một Tin Mừng trọng đại
- Chúa giáng trần (Ga 1, 1-18)
- SLCTTY/28- GIÁNG SINH: Nhập thể (Ga 1, 1-18)
- SLCTTY/28- GIÁNG SINH: Hoà Bình (Ga 1, 1-18)
Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại. Tin mừng ấy là Đấng Cứu Thế đã ra đời. Nhưng dấu chỉ để nhận diện Người lại thật là khiêm tốn: một trẻ sơ sinh bọc trong tã, nằm nơi máng cỏ. Vậy ai đã bọc tã cho trẻ nhỏ ấy nếu không phải là Mẹ Maria diu hiền bên cạnh Thánh Giuse cần mẫn.
Hoá ra tin mừng trọng đại này lại là tin mừng về một gia đình. Gia đình ấy nghèo đến độ chẳng có một mái nhà lúc sinh con. Cũng vì nghèo mà họ chẳng tìm được chỗ trong quán trọ. Họ chẳng cần có một mái nhà, nhưng lại có mái ấm tình thương. Một gia đình đúng nghĩa, chẳng bù cho những gia đình nhà cao cửa rộng, nhưng có mà như không có, khiến trẻ thơ mất hẳn mái ấm tinh thần.
Gia đình ấy phải sinh con giữa cảnh đồng không mông quạnh, nhưng phải chăng chính ở đó mà vẻ đẹp của gia đình được biểu lộ. Vẻ đẹp của một gia đình mở ra với cõi trời mênh mông, làm rung lên cả tiếng hát thiên thần: Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm. Vẻ đẹp của một gia đình mở ra với mọi người kể cả những kẻ nghèo hèn nhất là các mục đồng. Thật khác xa với đôi tình nhân hôm nào trong vườn địa đàng, khép kín với Thiên Chúa đến độ phải ẩn mình, khép kín với nhau vì những lời phiền hà trách móc và làm cho cả đất đai cũng trở nên gai góc. Vâng, gia đình ấy đã trở thành một tin mừng trọng đại, tất cả cũng chỉ vì Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Thiên Chúa đang ở giữa họ.
Trong một vở kịch mang tựa đề là “Quỷ ở với người”, nhà văn Nguyễn Huy Thiệp đã phác hoạ khuôn mặt một gia đình đang phá sản. Khi mà mối quan hệ gia đình được xây dựng trên đồng tiền, trên tình dục và quyền lực, chứ không phải trên đạo đức. Khuôn mặt gia đình ấy cũng có thể là dự báo về tình trạng nhiều gia đình đang và sẽ xuất hiện trong thời buổi hiện nay.
Nếu nhà văn Nguyễn Huy Thiệp đặt tên cho gia đình đang phá sản ấy là Quỷ ở với người, thì tôi nghĩ, giải pháp để cứu vãn gia đình chính là Chúa ở với người. Giải pháp ấy khởi đi từ tin mừng về đôi vợ chồng trẻ, sinh con giữa cánh đồng Bêlem ngày xưa. Chúa ở với Người là để Đấng cứu độ đến với mỗi thành viên trong gia đình, mang lấy tâm tư và mặc lấy con người mới theo tinh thần của Người. Chúa ở với người là để cho Người hướng dẫn và chi phối cuộc sống gia đình của chúng ta. Chúa ở với người là để cho mầu nhiệm giáng sinh được trở nên hiện thực trong chính cuộc sống của cá nhân và gia đình. Có Chúa hiện diện trong gia đình và cùng đi với chúng ta trên vạn nẻo đường đời, thì bản thân chúng ta mới được bình an, và gia đình chúng ta mới trở thành một mái ấm ngập tràn yêu thương và hạnh phúc.
Ngày nay, con người là một vấn đề được chú ý nhiều nhất. Càng ngày những công trình bác ái càng được phát huy sâu rộng. Càng ngày người ta càng cảm thấy sự tôn trọng và thăng tiến con người là một yếu tố cần thiết làm nên văn minh, cũng như làm cho dân giàu nước mạnh. Lý tưởng mà con người mơ ước và theo đuổi mỗi ngày một cao đẹp và phong phú hơn. Từ đó, chúng ta đi vào mầu nhiệm giáng sinh.
Thực vậy, với mầu nhiệm giáng sinh, thì yếu tố con người cũng là yếu tố hàng đầu. Bởi vì cái giá mà Thiên Chúa đã trả để giải quyết vấn đề con người chứng tỏ con người thực là quan trọng. Đúng thế, trong kinh Tin Kính chúng ta vốn hằng tuyên xưng: Vì loài người chúng tôi và để cứu rỗi chúng tôi, Người đã từ trời xuống thế.
Theo thánh Gioan diễn tả, thì Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể. Thiên Chúa đã xuống thế, mặc lấy thân phận con người, hoà mình vào những thực tại của kiếp người. Và để chia sẻ cuộc sống con người, Ngài đã trở nên giống chúng ta, ngoại trừ tội lỗi. Thiên Chúa đã bước xuống phận con người, để con người được tiến lên ngôi Thiên Chúa.
Ngài đã cùng với những người thành tâm thiện chí phấn đấu đẩy lùi những gì là xấu xa và phát huy những gì là tốt đẹp, xứng với phẩm giá con người.
Như thế, con người chính là đối tượng của mầu nhiệm giáng sinh, chính vì mỗi người chúng ta mà Ngài đã đến, đến để giúp chúng ta tìm được hạnh phúc ở đời này và đời sau. Hơn thế nữa, cũng chính vì con người mà Ngài đã đổ ra cho đến giọt máu cuối cùng trên thập giá, để cứu chuộc chúng ta, tha thứ cho chúng ta, trả lại cho chúng ta địa vị làm con cái Chúa, đã mất đi vì tội lỗi và cho chúng ta được thừa hưởng phần sản nghiệp Nước Trời.
Mỗi khi chúng ta giúp đỡ người khác, nhất là những người ngheo túng và khổ đau, thì đó là chúng ta đã cộng tác với Chúa, hay nói một cách mạnh mẽ hơn, thì đó là chúng ta đã giúp đỡ cho chính Chúa vậy.
Cái nhìn lạc quan trên đây giúp chúng ta phấn khởi để cùng nhau tích cực góp phần giải quyết vấn đề con người hôm nay, nhất là những kẻ bị xã hội ruồng bỏ. Nếu chúng ta biết rằng vấn đề con người là quan trọng đến nỗi chính Thiên Chúa đã phải dấn thân, đã phải nhập cuộc để giải quyết, thì bất cứ ai thiện chí góp phần vào đều đáng được kể là cộng tác với Thiên Chúa, dù người đó không cùng một quan điểm, không cùng một niềm tin với chúng ta. [Mục Lục]
Một hài nhi không nhà không cửa.
Hẳn rằng chúng ta còn nhớ, có lần Chúa Giêsu đã phán: Con cáo có hang, chim trời có tổ nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu. Lời nói này đã trở thành một sự thật ngay từ đêm hôm nay, khi Ngài mở mắt chào đời.
Thực vậy, Ngài đã sinh ra trong một hang đá ngoài đồng vắng, nơi nghỉ ngơi của chiên bò. Mẹ Ngài đã đặt Ngài nằm trong một chiếc máng có. Thế nhưng đó lại là một sự kiện kỳ diệu, làm chuyển biến cả số phận của nhân loại.
Theo lệnh của hoàng đế César, những người trở về Bêlem để đăng ký nhân hộ khẩu, đều tìm thấy một mái nhà để nghỉ qua đêm, hoặc là nơi hàng quán, hoặc là nơi bà con thân thích. Dường như chỉ có mình Ngài, một hài nhi không nhà không cửa, không cả chốn tựa đầu.
Theo lề thói thông thường, chúng ta có thể mường tượng Ngài sinh ra trong một toà lâu đài hay trong một cung điện kín cổng cao tường. Nhưng Ngài đã không làm thế, bởi vì Ngài là người của mọi người, Ngài đến để cứu chuộc cả nhân loại. Hang đá Bêlem không có cửa, và nếu có thì cánh cửa ấy vẫn luôn mở rộng, để tất cả chúng ta đến tìm gặp Ngài, mà không cần báo trước, không cần chờ đợi, không cần những thủ tục kính chuyển.
Hơn thế nữa, Ngài đã không sinh ra dưới một mái nhà kiên cố, điều ấy như muốn chứng tỏ rằng vương quốc của Ngài không thuộc trần gian này, cho nên Ngài không cần tới một tấc đất để làm sản nghiệp. Ngài không tranh giành ảnh hưởng, Ngài không gây chiến để mở mang bờ cõi. Nhưng Ngài đã để lại và trao ban cho chúng ta tất cả, cho đến giọt máu cuối cùng trên thập giá, để chứng tỏ một tình yêu thương dạt đào: Không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu.
Hài nhi nơi máng cỏ Bêlem, phải chăng là một hình ảnh, một biểu tượng của vị vua hoà bình. Ngài chỉ muốn giải thoát chúng ta khỏi mọi ách nô lệ, nhất là ách nô lệ của tội lỗi. Ngài chỉ ước mong cho chúng ta được nếm thử niềm vui, niềm vui của một tâm hồn trong sạch, hầu chuẩn bị cho hạnh phúc Nước Trời. Ngài không cần chúng ta dành cho Ngài một mái nhà, nhưng chính Ngài sẽ dành cho chúng ta một chỗ cư ngụ vĩnh viễn trong nhà Cha trên trời.
Là một vị Vua không binh đội, không cung điện, không ngai vàng. Là một vị Vua của mọi tâm hồn, vì thế có lẽ điều Ngài mong đợi hơn cả nơi mỗi người chúng ta, đó là hãy dành cho Ngài một nơi cư ngụ trong chính thẳm sâu cõi lòng chúng ta. Tâm hồn chúng ta phải là một hang đá máng cỏ sống động cho Chúa và tình yêu của chúng ta sẽ là những tia nắng sưởi ấm cho Chúa. Thế nhưng chúng ta đã ý thức và thực hiện được điều đó hay chưa?[Mục Lục]
(Lễ Giáng sinh 2015 (Lễ ban ngày) – ĐGM. Giuse Nguyễn Năng)
Trung tâm điểm và đồng thời cũng là cao điểm của bài Tin Mừng hôm nay là lời khẳng định của thánh Gioan: “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta”. Con Thiên Chúa đã trở nên con người và đi vào lịch sử loài người. Con Thiên Chúa nhập thể để làm gì?
- Thánh Gioan nói trong lời mở đầu của Tin Mừng: Ngôi Lời đến để chiếu sáng thế gian, để tỏ cho thế gian biết Chúa Cha; nhưng đây là thế gian chìm ngập trong bóng tối. Tác giả thư Do Thái (Bài đọc 2) cho thấy Con Thiên Chúa đến trần gian để mạc khải Chúa Cha cho chúng ta, và còn hơn nữa, để chịu chết và đền tội cho chúng ta. Con Thiên Chúa đến trần gian để tẩy trừ tội lỗi, và “sau khi đã tẩy trừ tội lỗi, Con Thiên Chúa lên ngự bên hữu Đấng Cao Cả trên trời”.
“Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta”. Ngôi Lời làm người để cứu độ nhân loại. Ơn cứu độ trước hết hệ tại ở ơn tha tội. Thiên Chúa tha thứ cho tội lỗi của nhân loại. Chúa Giêsu đã thực sự sống cuộc đời của con người, trải qua những kinh nghiệm của đời người, chỉ trừ tội lỗi, để đền tội cho chúng ta.
- Ơn cứu độ không phải là một trò ảo thuật. Nhân loại chìm ngập trong bóng tối tội lỗi cần được Ánh sáng chiếu soi. Nhưng Thiên Chúa không đọc câu thần chú để làm tiêu tan bóng tối. Để chiếu sáng thế gian, Ánh sáng đã đi vào thế gian tăm tối, chứ không chiếu sáng từ bên ngoài. Nhân loại chìm ngập trong tội lỗi cần được tha thứ. Nhưng Thiên Chúa không cứ ở mãi trên trời cao tuyên bố lời tha bổng tội lỗi cho con người. Không, tội lỗi quá nặng nề, nên ơn tha tội không quá rẻ như thế. Thiên Chúa không ở trên toà cao, trái lại, đã cho Con Một mình đi vào đời, làm người để đền tội cho chúng ta.
Có tội thì phải đền tội. Đó là lẽ công bằng, là đòi hỏi của công lý. Nếu không đền tội, thì còn đâu công lý? Nhưng ngược lại, nếu Thiên Chúa cứ đòi hỏi theo luật công bằng thì còn đâu tình yêu thương? Hơn nữa, loài người đâu có gì để đền bù cho cân xứng với sự xúc phạm đến Thiên Chúa.
Trong mầu nhiệm Nhập thể, Thiên Chúa đã làm một tổng hợp tuyệt vời, vừa thực thi công lý vừa biểu lộ lòng thương xót. Đúng hơn, công lý của Thiên Chúa lại cũng chính là lòng thương xót, bắt nguồn từ lòng thương xót. Do lòng thương xót, Thiên Chúa ban cho chúng ta có cái gì đó để đền bù tội lỗi cho cân xứng. “Cái gì đó” là chính Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa làm người.
Người ta kể về một trong những ông thị trưởng đầu tiên của thành phố New York bên Hoa Kỳ giai thoại như sau. Một ngày mùa đông lạnh buốt nọ, ông thị trưởng phải chủ tọa các phiên tòa. Người ta điệu đến trước mặt ông một ông lão quần áo tả tơi. Người đàn ông này bị tố cáo là đã ăn cắp một ổ bánh mì. Lời tự biện hộ duy nhất mà người đàn ông khốn khổ đưa ra là: “Gia đình tôi đang chết đói”.
Nghe xong lời cáo buộc của cử tọa cũng như lời biện bạch của ông lão, ông thị trưởng đưa ra phán quyết như sau: “Luật pháp không tha thứ cho bất cứ một hành động xấu nào. Tôi thấy cần phải trừng phạt ông, và hình phạt cho tội ăn cắp là ông phải nộp 10 đôla”. Vừa công bố bản án, ông thị trưởng rút trong túi của mình ra 10 đôla và trao cho người đàn ông khốn khổ.
Đó là phần đầu của câu chuyện. Cùng một lúc, ông thị trưởng vừa thi hành công lý vừa tỏ lòng thương xót đối với kẻ ăn trộm, thi hành công lý bằng cách thương xót.
Thiên Chúa là vị Quan toà tối cao đòi loài người phải đền tội vì đã phạm tội, xúc phạm nặng nề đến Thiên Chúa. Đó là công lý. Nhưng Thiên Chúa lại thi hành công lý bằng cách thực thi lòng thương xót. Vì quá yêu thương thế gian, Thiên Chúa đã ban tặng Con Một cho thế gian, để người Con ấy đền tội thay cho chúng ta. Con Một của Thiên Chúa đã làm người để đền bù tội lỗi thay cho toàn thể nhân loại. Thiên Chúa đi bước trước và biểu lộ lòng thương xót để chúng ta có khả năng thi hành công lý đối với Thiên Chúa.
Công lý là những gì chúng ta nhận được do việc chúng ta làm. Còn lòng thương xót là những gì chúng ta nhận được do việc Thiên Chúa làm. Lòng thương xót của Thiên Chúa bao trùm và vượt trên cả những đòi hỏi của công lý.
Mầu nhiệm Giáng sinh là mầu nhiệm của lòng thương xót. “Thiên Chúa ta đầy lòng thương xót, cho Vầng Đông tự chốn cao vời viếng thăm ta” (Lc 1, 78). Khi mừng mầu nhiệm Giáng sinh, chúng ta cảm tạ Thiên Chúa giàu lòng thương xót đã ban cho chúng ta người Con Một để người Con ấy đền tội nhân danh toàn thể nhân loại. Mầu nhiệm Giáng sinh là quà tặng của lòng thương xót. Lòng thương xót được biểu lộ hôm nay qua mầu nhiệm Giáng sinh, và sẽ đạt tột đỉnh qua việc Thiên Chúa hy sinh trọn vẹn Con Một mình trong mầu nhiệm Thập giá.
- Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta”. Mầu nhiệm Nhập thể chiếu toả ánh sáng vào thân phận con người để chúng ta nhận ra rằng những anh chị em nghèo hèn đói khổ đang sống bên cạnh chúng ta là chính Chúa. Chúng ta đã được Thiên Chúa thương xót, vì thế hãy thương xót lẫn nhau.
Trở lại với câu chuyện ăn cắp ổ bánh mì.
Sau khi trao cho người ăn cắp 10 đôla để nộp phạt, ông thị trưởng quay xuống cử tọa nói tiếp: “Ông lão đã bồi thường vì tội ăn cắp của ông. Còn phần quý vị, tôi yêu cầu mỗi người phải đóng 50 xu tiền phạt vì sống dửng dưng đến độ để cho trong thành phố của chúng ta còn có một người nghèo phải đi ăn cắp”. Nói xong, ông ra lệnh cho viên biện lý đi thu tiền và trao tất cả cho ông lão. Khi chiếc mũ đã được chuyền một vòng, người ta đếm được 47 đôla 50 xu. Ông thị trưởng trao tất cả cho ông lão. (Trích từ “Lẽ Sống”).
Có bao giờ chúng ta nhận thấy mình cũng có trách nhiệm về những tội ác xảy ra hằng ngày chung quanh chúng ta không? Biết đâu vì chúng ta dửng dưng vô cảm, thiếu liên đới chia sẻ, nên mới xảy ra biết bao tội ác trong xã hội! Không nhiều thì ít, một cách nào đó, trực tiếp hoặc gián tiếp.
Nếu chúng ta ý thức về trách nhiệm liên đới, chia sẻ, thực sự quan tâm giúp đỡ lẫn nhau, chúng ta sẽ góp phần giảm bớt cảnh đói khổ, và như thế tội ác trên thế giới cũng sẽ giảm đi. Thế giới không thiếu thực phẩm, không thiếu tài nguyên. Chỉ tại thiếu lòng thương xót.
Chúng ta thực sự có lỗi, có tội, có trách nhiệm, và là lỗi nặng, trách nhiệm nặng, khi không quan tâm đến cảnh đói khổ của tha nhân. Dụ ngôn về ngày phán xét chung (x. Mt 25, 31-46) cho ta hiểu rằng sự dửng dưng vô cảm trước những nỗi đói khổ của người khác là một lỗi nặng đưa chúng ta đến lửa đời đời. Mầu nhiệm Nhập thể nhắc chúng ta nhớ rằng mỗi người sẽ bị xét xử tuỳ theo thái độ của mình đối với người anh chị em nghèo hèn đói khổ, không phải chỉ vì họ là hình ảnh của Chúa, mà hơn nữa, vì khi chúng ta giúp đỡ họ là chúng ta giúp đỡ Chúa, và ngược lại, khi sống vô cảm mà gạt bỏ họ là chúng ta gạt gạt bỏ chính Chúa.
- Có bao giờ chúng ta tự hỏi: nếu thế giới này không có Chúa Giêsu thì sẽ ra sao? Nếu Thiên Chúa không thương xót nhân loại mà ban tặng Con Một, nhân loại có còn tồn tại đến hôm nay không? Thư Do Thái (Bài đọc 2) trả lời: “Thiên Chúa đã nhờ Con Một mà dựng nên vũ trụ”; hơn nữa, vạn vật được duy trì và tồn tại là nhờ Chúa Giêsu. Còn trong Tin Mừng, thánh Gioan khẳng định: “Từ nguồn sung mãn của (Ngôi Lời làm người), tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác”.
Mầu nhiệm Giáng sinh củng cố niềm hy vọng của thế giới. Nhân loại còn sống và tồn tại được là vì có Chúa Giêsu, cuộc đời chúng ta tràn đầy niềm vui và hy vọng là nhờ tín thác vào lòng thương xót của Thiên Chúa. Tương lai của nhân loại tuỳ thuộc thái độ của con người sống lòng thương xót như thế nào, tuỳ thuộc con người có biết đón nhận lòng thương xót của Thiên Chúa và biết thương xót lẫn nhau không. Thế giới này là “nhà” của Chúa Giêsu, nhưng khi “Ngài đến nhà mình, thì người nhà đã không đón nhận”. Qua mầu nhiệm Giáng sinh, chúng ta hiểu rằng nhân loại không thể hưởng bình an và hạnh phúc nếu không có Chúa Giêsu, thế giới này sẽ không có tương lai khi gạt bỏ Chúa Giêsu là hiện thân của lòng thương xót.
Lễ Giáng sinh là khởi đầu cho tương lai tươi sáng của nhân loại. Hãy xây dựng đời mình trên nền tảng chân lý và ân sủng là chính Chúa Giêsu.[Mục Lục]
Cách đây hơn 20 thế kỷ, một biến cố đã xảy ra và đã làm cho cuộc sống của nhân loại được phong phú. Đúng thế. Vào một đêm đông, một hài nhi nhỏ bé đã được sinh ra trong tăm tối. Nhưng rồi ba mươi năm sau, người ta lại thấy Ngài xuất hiện đi trên các nẻo đường như một ánh lửa khác thường của nhân loại. Ngài đã mời gọi thay đổi cả thế giới. Ngài đã lật đổ mọi thứ nặng nề trì trệ của cơ chế cũng như của tôn giáo.
Đối với Ngài, không có những bức hàng rào ngăn cách những gia đình, dòng tộc, phe nhóm và quốc gia. Ngài khơi dậy nơi mọi người sự ân cần của tình thương. Ngài đã nói năng thân mật với Thiên Chúa cao cả như một người con. Nơi nào Ngài đến, thì hệ thống đẳng cấp bị sụp đổ. Người nghèo được vui mừng. Người bệnh tật và bất hạnh thấy được bảo đảm. Người cuối hết trở thành kẻ thứ nhất. Ngài đã tái sinh ông nhà giàu dính cứng trong tiền bạc bất chính, người đàn bà hư hỏng, nhà thông luật nặng hình thức và thậm chí cả viên sĩ quan của nhà vua. Một sự sống chưa từng có đã bừng lên nơi những con người này, để nhờ đó, biến đổi cả cuộc sống xã hội và xây dựng một thế giới mới đầy tình thương.
Và như chúng ta đã biết: Ngọn lửa nhân bản và yêu thương ấy đã chỉ có một thời. Những kẻ quyền hành của thế giới cũ đã liên minh chống lại Ngài. Hài nhi sinh ra trong hang đá Bêlem năm nào đã bị đóng đinh trên thập giá. Ngài đã chết sau ba giờ hấp hối, vì đã muốn biến đổi thế giới, vì đã muốn khai sinh một nhân loại mới. Dọc theo các thế kỷ, từ đó cho đến nay, nhiều người đã quên mất Ngài, thậm chí trong số đó có cả những người mang danh hiệu Kitô hữu.
Thế nhưng, tinh thần của Đức Kitô không ngừng lây lan trong tâm hồn chúng ta, hay như một người Hồi giáo đã nói: Con người mang một cái bệnh gọi là bệnh Giêsu, thì không bao giờ có thể lành được. Ngày nay cũng vậy, Ngài có những người bạn nhiệt tình của mình. Tôi nghĩ đến những người trong đêm giáng sinh thay vì đi dự một tiệc rượu, đã tới thăm viếng những người đau yếu, nghèo túng và chia sẻ với họ một phần quà nho nhỏ. Tôi nghĩ đến những ông bác sĩ sau khi tốt nghiệp, thay vì mở phòng mạch tại thành phố, thì đã đi phục vụ không công tại những nơi xa xôi heo lánh. Tôi nghĩ đến những người dâng hiến cả cuộc đời cho những kẻ phong cùi cay cực. Thay vì lãng quên hay chạy trốn, họ đã tiến lại gần và tự hiến. Họ đã là những phản ánh trong sáng nhất cho tình thương của Ngài.
Thế nhưng tới đây thì một câu hỏi được đặt ra: Vậy thì Thiên Chúa ở đâu cho chúng ta tìm kiếm, hay Ngài chỉ còn là một kỷ niệm xa xưa? Cựu Ước kể lại rằng, đang khi Đavit dự tính xây cất một đền thờ cho Thiên Chúa, thì Ngài đã viếng thăm tiên tri Nathan và nói với ông: Ta chẳng bao giờ ở trong nhà kể từ ngày Ta đem con cái Israel ra khỏi Ai Cập. Chính ta sẽ xây cho Đavit một ngôi nhà. Nhà của Đavit và vương quốc của Đavit hằng tồn tại trước mặt Ta.
Như thế chúng ta thấy Thiên Chúa không phải chỉ ở trong các đền thờ mà còn ở trong chính con người. Hay như thánh Gioan đã viết: Thiên Chúa đã làm người và ở giữa chúng ta. Vậy thì Ngài đã thực sự hiện diện nơi bản thân chúng ta hay chưa, và hơn thế nữa chúng ta đã thực sự tìm gặp được Ngài nơi những người chung quanh, nhất là nơi những người anh em bệnh tật, đau khổ và nghèo túng hay chưa?[Mục Lục]
HÔM NAY ĐẤNG CỨU THẾ
ĐÃ GIÁNG SINH CHO CHÚNG TA
Hôm nay Đấng Cứu Thế đã Giáng Sinh cho chúng ta. Lời loan báo Chúa Giáng Sinh vang lên đêm nay, lời loan báo xa xưa và luôn mới mẻ. Lời loan báo vang lên cho những ai đang tỉnh thức, cho những mục đồng tại Bêlem cách đây 2,000 năm, nó vang lên cho những ai đang sống theo đòi hỏi của Mùa Vọng, và một khi đã tỉnh thức trong đợi chờ, sẵn sàng đón nhận sứ điệp vui mừng được hát lên trong Thánh Lễ hôm nay: “Hôm nay Đấng Cứu Thế đã Giáng Sinh cho chúng ta”.
Dân Kitô đang tỉnh thức, toàn thể thế giới đang tỉnh thức trong đêm Giáng Sinh này. Trong những ngày này, dường như Giáo Hội không bao giờ ngừng lặp lại rằng:”Hôm nay Đấng Cứu Thế Giáng Sinh cho chúng ta”. Lời rao giảng này có tích chứa sức mạnh không bao giờ cạn để canh tân, nó vang dội trong Đêm Thánh này một cách mạnh mẽ đặc biệt. Đây là Giáng Sinh của đại năm thánh, kỷ niệm sống động của hai ngàn năm của Chúa Kitô, kỷ niệm cuộc sinh hạ kỳ diệu, một biến cố đã ghi dấu điểm khởi đầu mới của lịch sử. “Ngày hôm nay Ngôi Lời đã làm người và sống giữa chúng ta”.
Ngày hôm nay trong đêm cực thánh này, thời gian được mở ra đến cõi đời đời, bởi vì Ngài, Lạy Chúa Kitô, Ngài đã từ trời cao mà sinh xuống giữa chúng con. Ngài sinh xuống trần gian từ cung lòng của một người nữ đã được chúc phúc hơn mọi người nữ. Ngài là con của Đấng Tối Cao, sự thánh thiện của Ngài đã thánh hóa thời gian của chúng con một lần vĩnh viễn luôn mãi, những ngày tháng, những thế kỷ, những ngàn năm. Với sự Giáng Sinh của Ngài, Ngài đã làm cho thời gian trở thành cái hôm nay của ơn cứu rỗi.
Hôm nay Đấng Cứu Thế đã Giáng Sinh cho chúng ta. Đêm nay chúng ta cử hành mầu nhiệm Bêlem, mầu nhiệm của một đêm đặc biệt cách nào đó nằm trong thời gian vừa đồng thời vượt qua thời gian, trong cung lòng của Đức Nữ Đồng Trinh một Con Trẻ đã sinh ra, một máng cỏ đã trở thành cái nôi cho Đấng là sự sống đời đời.
Lễ Giáng Sinh là lễ của sự sống, bởi vì Ngài, Lạy Chúa Giêsu, khi đến trong thế gian như một người trong chúng con, Ngài đã chúc phúc cho giờ Ngài đã sinh ra, một giờ nói lên cách tượng trưng cho mầu nhiệm của cuộc sống con người, vừa liên kết những đau khổ của sự sinh hạ với niềm hy vọng, liên kết đau khổ với niềm vui. Tất cả những điều này đã xảy ra tại Bêlem, một người mẹ đã sinh con, một con người đã sinh ra trong trần gian, đó là con người, đó là mầu nhiệm của Bêlem.
Với niềm cảm xúc trong tâm hồn, tôi nghĩ lại những ngày hành hương năm Thánh của tôi bên Thánh Địa, tâm trí tôi trở lại với hang đá nơi tôi được dịp dừng lại cầu nguyện. Tôi hôn kính trong tinh thần, hôn kính miền đất được chúc phúc kia nơi phát sinh niềm vui không bao giờ tàn cho thế giới. Tôi lo âu cho những nơi Thánh và đặc biệt là thành Bêlem nơi mà buồn thay vì hoàn cảnh chính trị khó khăn không thể nào diễn ra Lễ Nghi Giáng Sinh với sự long trọng như mọi khi. Tôi mong muốn sao cho trong đêm nay, những cộng đoàn Kitô tại đó cảm thấy được tình liên đới tràn đầy của toàn thể Giáo Hội đối với họ.
Thưa anh chị em rất thân mến tại Bêlem,
Chúng tôi gần gũi với anh chị em với lời cầu nguyện thật sốt sắng. Cùng với anh chị em, chúng tôi rung động vì số phận của toàn vùng Trung Đông.
Nguyện xin Thiên Chúa lắng nghe lời chúng ta khẩn cầu. Ước chi từ quảng trường này, trung tâm của thế giới Công Giáo được vang lên một lần nữa với sức mạnh được canh tân, vang lên lời loan báo của các thiên thần, của các mục đồng: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời cao và hòa bình dưới thế cho mọi người được Chúa yêu thương”.
Niềm hy vọng của chúng ta không thể nào bị lung lay, cũng như không thể nào thiếu đi sự khâm phục những gì chúng ta đang cử hành. Ngày hôm nay, Đấng ban hòa bình cho thế gian Giáng Sinh. Hôm nay Đấng Cứu Thế Giáng Sinh cho chúng ta. Ngôi Lời nằm khóc trong máng cỏ, Ngài được gọi là Giêsu, nghĩa là Thiên Chúa Cứu Rỗi, bởi vì Ngài sẽ cứu dân Ngài khỏi mọi tội lỗi.
Không phải trong một lâu đài mà Đấng Cứu Chuộc sinh ra, Đấng có sứ mạng thiết lập lại Vương Quốc đời đời và phổ quát. Ngài sinh ra trong một chuồng loài vật và sống giữa chúng ta, Ngài thắp lên trong thế giới ngọn lửa tình yêu Thiên Chúa và ngọn lửa này sẽ không bao giờ tắt. Ước chi ngọn lửa này cháy lên trong các tâm hồn như một ngọn lửa tình bác ái hữu hiệu, tình bác ái trở thành sự tiếp đón, nâng đỡ cho biết bao anh chị em bị thử thách bởi sự nghèo cùng và đau khổ.
Lạy Chúa Giêsu mà chúng con chiêm ngắm trong cảnh nghèo hèn tại Bêlem, xin hãy làm cho chúng con trở nên những chứng nhân của tình yêu Chúa, của tình yêu đã thôi thúc Ngài cởi bỏ vinh quang của Thiên Chúa để sinh ra sống giữa con người và chịu chết vì chúng con, xin Ngài hãy đổ vào chúng con Thánh Thần của Ngài, ngõ hầu ân sủng của mầu nhiệm Nhập Thể khơi dậy nơi mỗi tín hữu sự dấn thân góp sức cách quảng đại hơn, phù hợp hơn với sự sống mới do Bí Tích Rửa Tội trao ban. Xin hãy làm cho ánh sáng của đêm hôm nay sáng hơn ban ngày, chiếu sáng trên tương lai và hướng dẫn những bước tiến của nhân loại trên con đường hòa bình.
Đức Thánh Cha kết thúc bài giảng của Ngài với lời nguyện:
Lạy Chúa, Hoàng Tử của Hòa Bình, Đấng Cứu Chuộc đã Giáng Sinh vì chúng con, xin hãy đồng hành với Giáo Hội Chúa trên con đường đang mở ra dẫn đưa Giáo Hội bước vào ngàn năm mới.[Mục Lục]
(Trích trong “Suy Niệm Lời Chúa” của Radio Veritas Asia)
Lễ Giáng sinh có thể nói được là lễ của âm nhạc. Thật thế, chưa có một cuộc lễ nào trong lịch sử nhân loại đã là nguồn cảm hứng dồi dào cho âm nhạc cho bằng lễ Giáng sinh, và mãi mãi sẽ còn những bài ca bất hủ về lễ Giáng sinh. Kỳ thực, lễ Giáng sinh cũng chính là một bản nhạc bất hủ Thiên Chúa dành cho con người. Nếu như âm nhạc là một sự kết hợp hài hòa giữa âm thanh và sự thinh lặng, thì mầu nhiệm của Thiên Chúa làm người cũng chính là một thứ âm nhạc.
Thánh Gioan tông đồ, người đã chiêm ngắm mầu nhiệm ấy, người đã sống mầu nhiệm ấy, đã diễn tả bằng một câu nói ngắn gọn như sau: “Và Ngôi Lời đã hóa thành nhục thể”. “Ngôi Lời đã hóa thành nhục thể” nghĩa là đã hóa thành một người trong chúng ta. Ngài đã sống giữa chúng ta. Ngài đã nói thứ ngôn ngữ vào thời đại của Ngài. Những lời của Ngài đã được ghi chép lại và quảng bá khắp cùng thế giới từ 2,000 năm qua. Lời ấy đã được dịch ra trên 5 ngàn thứ ngôn ngữ và thổ ngữ khác nhau trên khắp thế giới. Và những lời ấy đã trở thành ánh sáng và lương thực cho tất cả nhân loại.
Thế nhưng trước khi bắt đầu cuộc sống công khai, trước khi mở miệng để lại cho chúng ta những lời vàng ngọc, thì Chúa Giêsu đã sống trong thinh lặng. Thinh lặng của hang đá Bêlem và nhất là thinh lặng trong suốt ba mươi năm tại Nagiarét. Là Lời hằng sống của Thiên Chúa, là Lời đã hóa thành nhục thể, Chúa Giêsu đã bắt đầu cuộc sống bằng sự thinh lặng. Tại sao thế? Thưa, bởi vì Ngài không những nói với chúng ta bằng lời nói, mà Ngài còn nói với chúng ta bằng sự thinh lặng nữa. Ngài nói với chúng ta bằng tất cả cuộc sống của Ngài. Qua sự thinh lặng của cuộc sống ấy, Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta rằng Ngài trở thành một người trong nhân loại, Ngài trở thành thân thiết với mọi người và mỗi một người sinh ra trong cõi đời này. Ngài muốn nói với chúng ta rằng sự sống của con người là một giá trị thánh thiêng bất khả nhân nhượng, bất khả xâm phạm. Ngài muốn nói với chúng ta rằng mỗi con người sinh ra trong thế gian này dù xấu xa, thấp hèn, mạt rệp đến đâu cũng đều được đóng ấn tình yêu của Thiên Chúa, cũng đều là hình ảnh của Thiên Chúa, cũng đều là con cái của Thiên Chúa. Phẩm giá cao cả ấy, Chúa Giêsu muốn khẳng định với chúng ta qua cuộc sống thinh lặng, lam lũ, nghèo hèn của Ngài, cũng như qua những kết thân của Ngài với những người bị xã hội đẩy ra bên lề.
Chúa Giêsu đã sinh ra cách đây hơn 2,000 năm. Sự hiện hữu của Ngài là sự hiện hữu có giới hạn. Giới hạn trong một không gian, một thời đại, giới hạn trong một cách sống. Chúa Giêsu đã không hề là một người chồng, Chúa Giêsu không hề là một người cha trong gia đình. Chúa Giêsu cũng chưa từng sống trong một xã hội thuộc xã hội chủ nghĩa. Thế nhưng, cuộc nhập thể làm người của Ngài không hề chấm dứt với cái chết của Ngài. Như một bản nhạc bất hủ, mầu nhiệm Ngôi Lời hóa thành nhục thể vẫn tiếp tục tái diễn trong lịch sử nhân loại. Lễ Giáng sinh không chỉ đến mỗi năm một lần, nhưng tiếp tục được cử hành trong từng giây phút của cuộc sống chúng ta.
Thật thế, có lễ Giáng sinh là khi chúng ta để cho Ngài được sinh ra và lớn lên trong tâm hồn chúng ta. Có lễ Giáng sinh, là khi chúng ta để cho Lời của Ngài thấm nhập vào cuộc sống của chúng ta và biến đổi chúng ta. Có lễ Giáng sinh, khi chúng ta tiếp nhận ra ý nghĩa cuộc đời này cho dẫu chúng ta phải trãi qua biết bao nhiêu đắng cay, chua xót trong cuộc sống này. Có lễ Giáng sinh, khi chúng ta nhận ra hình ảnh cao quý của Thiên Chúa trong mỗi một người anh em của chúng ta. Và có lễ Giáng sinh, khi chúng ta làm một nghĩa cử cho anh em của chúng ta. Bài thánh ca hát mừng Chúa Giáng sinh đó không chỉ được cất hát lên mỗi năm một lần, mà phải là khúc hoan ca trong từng phút giây cuộc sống chúng ta.
Nguyện xin Lời của Thiên Chúa đã hóa thành nhục thể cũng tiếp tục nhập thể trong từng tâm tư, suy nghĩ, hành động và cư xử của chúng ta để mỗi người chúng ta bằng lời nói cũng như bằng chứng tá thinh lặng, chúng ta trở thành lời cho mọi người, chúng ta trở thành âm nhạc cho mọi người.[Mục Lục]
(Bài giảng của ĐTC Phanxicô trong Lễ Đêm Giáng Sinh 2015 tại Đền Thánh Phêrô – Lm Trần Công Nghị chuyển ngữ)
Đêm nay “một ánh sáng tuyệt vời” chiếu sáng (Is 9: 1); ánh sáng của Chúa Giêsu giáng sinh tỏa sáng chung quanh tất cả chúng ta. Thật đúng và thời điểm trong những lời của tiên tri Isaia mà chúng ta vừa nghe: “Ngài đã mang lại niềm vui dồi dào và niềm vui lớn lao” (9: 2)! Trái tim chúng ta đã vui mừng trong chờ đợi thời điểm này; bây giờ niềm vui sung mãn và tràn đầy, vì cuối cùng lời hứa đã được thực hiện. Vui mừng hớn hở là dấu chỉ chắc chắn rằng sứ điệp chứa đựng trong mầu nhiệm của đêm này thật sự là từ Thiên Chúa. Không còn nghi ngờ gì nữa; hãy để lại sự nghi ngờ đó cho những người còn bi quan, vì chỉ tìm kiếm lý lẽ không thôi thì không bao giờ tìm ra sự thật. Không có chỗ cho sự thờ ơ đó ngự trị trong trái tim của những người không thể yêu vì sợ mất một cái gì đó. Tất cả nỗi buồn đã bị trục xuất, vì Hài Nhi Giêsu mang lại sự an ủi đích thật cho mọi trái tim.
Hôm nay, Con Thiên Chúa sinh ra, và tất cả mọi thứ thay đổi. Đấng Cứu Thế của thế giới đến để tham dự vào bản tính con người của chúng ta; chúng ta không còn lẻ loi và bị bỏ rơi. Đức Trinh Nữ cho chúng ta Con của Ngài như là sự khởi đầu của một cuộc sống mới. Ánh sáng thật đã đến để soi sáng đời sống chúng ta mà thường xuyên bị bao vây bởi bóng tối của tội lỗi. Hôm nay, chúng ta một lần nữa phát hiện ra chúng ta là ai! Tối nay chúng ta đã được chỉ cho biết con đường để đạt được đoạn kết của cuộc hành trình. Bây giờ chúng ta phải bỏ đi tất cả nỗi sợ hãi, vì ánh sáng cho chúng ta thấy con đường đến Bethlehem. Chúng ta không còn bị bỏ lại đàng sau nữa; chúng ta không được phép đứng nhàn rỗi. Chúng ta phải bước ra đi để xem Đấng Cừu Thế của chúng ta nằm trong máng cỏ. Đây là lý do để vui mừng hớn hở của chúng ta: Hài Nhi này đã được “sinh ra cho chúng ta”; Ngài đã được “ban cho chúng ta”, như tiên tri Isaia đã loan báo (9: 5). Biết bao con người qua hai ngàn năm đã đi qua tất cả các con đường của thế giới để loan báo cho mỗi người đàn ông và người phụ nữ hầu chia sẻ niềm vui này mà bây giờ là sứ mệnh của mỗi người chúng ta làm cho vị “Hoàng tử của hòa bình” và trở nên người tôi tớ hiệu quả ở giữa của các quốc gia.
Vì vậy, khi chúng ta nghe về câu chuyện Giáng sinh của Chúa Kitô, chúng ta hãy im lặng và để cho Hài Nhi này nói. Chúng ta hãy đem lời nói của Ngài vào trong tâm hồn trong chiêm niệm say mê về khuôn mặt của Ngài. Nếu chúng ta bồng Ngài trong vòng tay và để cho mình được Ngài ôm, Ngài sẽ đem đến hoà bình vô tận trong trái tim. Hài Nhi này dạy chúng ta những gì là thực sự cần thiết trong cuộc sống của chúng ta. Ngài sinh ra trong sự nghèo đói của thế giới này; không có chỗ trong nhà trọ cho Ngài và gia đình của Ngài. Ngài đã tìm thấy nơi trú ẩn và hỗ trợ trong chuồng chiên và được đặt nằm trong máng cỏ cho gia súc. Chưa hết, từ chỗ hư vô này, ánh sáng vinh quang Thiên Chúa chiếu tỏa. Từ bây giờ, con đường giải thoát đích thực và sự cứu rỗi viên mãn được mở ra cho mỗi người đàn ông và người phụ nữ, những người có trái tim đơn sơ. Hài Nhi này, với khuôn mặt chiếu tỏa sự tốt lành, lòng thương xót và tình yêu của Chúa Cha, huấn luyện cho chúng ta, các môn đệ của Ngài, như Thánh Phaolô nói, “hãy chối bỏ những con đường không có Chúa” và sự phú qúy của thế gian, để sống “tiết độ, công minh, sốt sắng “(Tit 2:12).
Trong một xã hội thường xuyên bị đầu độc do chủ nghĩa tiêu thụ và chủ nghĩa khoái lạc, giàu có và xa hoa, vẻ bề ngoại và tự đại, Hài Nhi này kêu gọi chúng ta phải hành động nghiêm nghị, nói cách khác, trong một cách thế đơn giản, cân bằng, phù hợp, có khả năng thấy và làm những gì cần thiết. Trong một thế giới mà tất cả mà thường là tàn nhẫn với người tội lỗi nhưng nhân nhượng với tội lỗi, chúng ta cần phải nuôi dưỡng một ý thức mạnh mẽ về công lý, để phân biệt và làm theo ý muốn của Thiên Chúa. Giữa một nền văn hóa của sự thờ ơ mà không phải là không thường xuyên trở thành tàn nhẫn, phong cách sống của chúng ta phải là đạo đức, đầy sự cảm thông, lòng từ bi và lòng thương xót, hàng ngày xuất nguồn từ nguồn cội của sự cầu nguyện.
Giống như những người chăn chiên của Bethlehem, có thể chúng ta cũng vậy, với đôi mắt đầy kinh ngạc và bỡ ngỡ, khi chiêm ngắm Hài Nhi Giêsu, Con Thiên Chúa. Và trước sự hiện diện của Ngài, ước chi trái tim của chúng ta oà tung ra trong lời cầu nguyện: “Lậy Chúa, xin chỉ cho chúng con lòng thương xót của Chúa và ban cho chúng con ơn cứu độ” (Tv 85: 8).[Mục Lục]
Ở thế chiến thứ hai, trên một mặt trận giữa hai nước Pháp và Đức, quân của hai bên giành nhau từng chiến hào; gây cấn đến độ vô phúc cho người nào sơ ý ló đầu ra khỏi chỗ núp là nát đầu ngay. Đó là tình hình vào những ngày 21, 22, 23 tháng12, 1943. Các sĩ quan hữu trách của cả hai bên đều đề phòng cấm ngặt binh sĩ của họ không được lơ là bỏ vị trí chiến đấu kể cả ngày Noel. Đến chiều 24 tháng 12, vẫn là bầu khí ngột ngạt của tử thần. Không có hưu chiến. Đó là lệnh cấp trên truyền xuống.
Đêm về, trong bầu khí yên lặng căng thẳng đó, bỗng một tiếng hát vọng lên từ một thông hào: “Đêm thanh bình, đêm ơn lành!” (Silent Night), rồi nhiều tiếng hát vọng theo, rồi người ta nghe cả hai phía Pháp Đức đều vang dậy tiếng hát Giáng Sinh; không ai bảo ai, bất chấp quân lệnh, binh sĩ của cả hai bên đều bật dậy, bỏ vị trí chạy lại bên nhau, ôm nhau cười nói, chúc lễ Giáng Sinh cho nhau. Họ trao cho nhau đồ dùng, cùng ăn uống với nhau như thể là những người bạn thân lâu ngày hội ngộ. Trước cảnh đó, các vị chỉ huy đều đồng ý hưu chiến đến hết ngày hôm sau.
Ngày 25-12 năm 1943 là một ngày đáng ghi nhớ cho những người ở trận tuyến đó. Hai bên Đức, Pháp cách đó mấy giờ là tử thù của nhau, bây giờ họ cùng chụp hình, trao kỷ niệm, chơi bóng, ăn chung với nhau như những người anh em rất yêu quí. Noel, ngày lễ Hoà bình.
***
Giáng Sinh là lễ của Hòa Bình. Hàng năm, cứ vào lễ Giáng Sinh, dù chiến trận có sôi sục đến đâu, người ta cũng thường dàn xếp để hai bên có được thời gian mừng lễ. Đó gọi là ngày hưu chiến. Sở dĩ có hưu chiến trong ngày lễ Giáng Sinh vì Ngôi Hai đã xuống thế làm người để giao hòa giữa trời và đất, giữa Thiên Chúa và loài người. Giao ước cứu chuộc sẽ được ký kết bằng máu của Ngôi Hai là Thiên Chúa và cũng là người thật. Đó là niềm vui vô cùng lớn lao của cả loài người được ơn cứu độ. Từ nay, tội tổ tông đã được tẩy xoá nhờ máu thánh của Con Thiên Chúa. Con người không còn vương vấn tội nhơ thì an bình sẽ ngự trị trong tâm hồn: “Bình an dưới thế cho người thiện tâm.”
***
Lạy Chúa, tâm hồn bình an thì không còn hận thù, đố kỵ, ganh ghét, nhưng luôn tin yêu, hy vọng, vui sống. Xin ban cho con sự bình an của Chúa để con luôn là sứ giả của an bình. Chúa đã hứa: “Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con.” Xin cho cầu nguyện cảm nếm được sự ngọt ngào của an bình trong tâm hồn và như thế là đủ cho con rồi. Vì có Chúa là đời con bình an. Amen![Mục Lục]
(Trích “Như Thầy Đã Yêu” của Thiên Phúc)
Vào một đêm kia, nhà văn Anh John Ruskin nhìn thấy những người thợ thắp đèn đường trong thành phố (lúc đó chưa có điện đường). Họ phải cầm một ngọn đuốc chiếc đèn khác dọc theo các con đường.
Trong đêm tối, Ruskin không thấy được người thắp đèn, ông chỉ nhìn thấy bó đuốc của người ấy và một vệt dài ánh sáng người ấy để lại đàng sau mình. Qua hình ảnh đó, cụ già Ruskin đưa ra một nhận định hết sức thâm thúy: “Đây là một minh họa tuyệt đẹp về người Kitô hữu. Có thể người ta chẳng bao giờ nhận biết người ấy, cũng chẳng bao giờ gặp anh, nhưng họ đều biết anh ta đã đi qua thế giới của họ nhờ vào chuỗi ánh sáng anh để lại phía sau mình”.
***
Giáng sinh là một biến cố vô cùng trọng đại, một trang sử mới của nhân loại, đầy huyền nhiệm và linh thánh, nối kết giữa trời và đất, giao hòa giữa Thiên Chúa và loài người. Vì Hài Nhi Giêsu chính là ánh sáng rạng ngời, đã chiếu soi trần gian trong đêm u tối, nguồn ánh sáng của tình yêu, chân lý, và sự sống. Thánh Gioan đã viết: “Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người” (Ga 1,9).
Ánh sáng tình yêu
Thiên Chúa là đấng quyền năng vô hạn, con người là phận hèn mọn. Thiên Chúa là đấng sáng tạo muôn loài, con người là vật thụ tạo nhỏ nhoi. Trớ trêu thay, loài hay chết lại liều mình xúc phạm đến Đấng cao cả. Phận tôi đòi lại cả dám ngạo mạn Đấng Thánh vô cùng đã vượt lằn ranh vô biên, đích thân xuống với con người, để tha thứ, cứu chuộc và yêu thương họ còn hơn cả trước khi con người phạm tội. Đứng trước đại hồng ân cao cả ấy, trí khôn con người chỉ còn biết bàng hoàng sửng sốt. Vâng, chính tình yêu đã làm nên những điều kỳ diệu. Thánh Gioan viết: “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một để những ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Hài Nhi Giêsu chính là ánh sáng tình yêu từ trời xuống, đã thắp sáng màn đêm tăm tối của trần gian bằng tình yêu cứu thế. Đúng như lời ngôn sứ Isaia: “Dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng; đám người sống trong vùng bóng tối, nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi” (Is 9,1).
Ánh sáng chân lý
Mang thân phận tội lỗi, con người chao đảo trong biển đời u mê lầm lạc, không biết đâu là bến bờ, nói chi đến hiểu biết về Thiên Chúa cao siêu thiện hảo. Chỉ có Hài Nhi Giêsu, Ánh sáng rạng ngời chân lý, mới có thể chiếu tỏa ánh sáng thần linh của Người vào tâm trí con người để họ nhận biết Thiên Chúa là Cha đầy yêu thương. Đó chính là mục đích hàng đầu của Đức Giêsu khi xuống trần gian. Thánh Gioan quả quyết: “Không ai thấy Thiên Chúa bao giờ; nhưng Con Một là Thiên Chúa, và là đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết” (Ga 1,18).
Ánh sáng ban nguồn sống.
Từ nguyên thủy, Ngôi Lời đã sống trong tương quan độc nhất với con người. Thật vậy, Người không chỉ là nguồn gốc của muôn loài, mà sự hiện diện của Người giữa chúng sinh còn tạo nên sự hiệp thông trong sự sống thần linh.
Ánh sáng của Hài Nhi Giêsu khi đem xuống trần gian không chỉ xóa tan bóng tối của trí khôn, mà còn chiếu tỏa vào linh hồn con người ánh sáng trọn hảo nhất là chính Thiên Chúa. Người phán: “Tôi là ánh sáng thế gian, ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng ban sự sống” (Ga 8,12).
Mừng lễ Giáng Sinh chính là cảm tạ Hài Nhi Giêsu đã đem ánh sáng huy hoàng của Người đến trong trần gian, trong tâm hồn chúng ta, và trong lòng mọi người.
Mừng lễ Giáng Sinh chính là bắt chước Gioan, làm chứng cho Ánh Sáng: là chiếc đèn soi đường cho thế gian, là ngọn đuốc chỉ lối cho mọi người đến cùng Thiên Chúa.
Mừng lễ Giáng Sinh chính là thực thi những điều thiện hảo, vì “ai làm điều ác thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách” (Ga 3,20).
***
Lạy Hài Nhi Giêsu, Ánh sáng rạng ngời. Xin cho chúng con luôn trở nên ngọn đèn rọi sáng giữa đêm đen. Xin dậy chúng con biết tích cực lan tỏa ánh sáng đến các tâm hồn, để Ánh sáng rạng ngời của Chúa luôn luôn tỏa sáng. Amen.[Mục Lục]
(Suy niệm Lễ Giáng Sinh 2013 – Lễ Nửa Đêm)
Cuộc kiểm tra đầu tiên (Lc 2:1-3): Kinh Thánh Sử Gia Eusebius* (260-340) đã nhắc tới cuộc kiểm tra này, và còn nói thêm là người Do Thái thời đó cho rằng việc kiểm tra để bắt dân chúng đóng thuế không khác hơn là Đế Quốc La Mã ra lệnh kiểm tra để đánh thuế sẽ làm cho họ trở thành như những người nô lệ, và đây cũng là khởi điểm để người Do Thái vùng lên chống lại bạo quyền. Xã hội Hoa Kỳ cũng làm kiểm tra 10 năm một lần không phải vì để tìm người đóng thuế nhưng là để phân định lãnh thổ chính trị trong nước và theo tỷ số mà chọn những người đại diện cho dân làm dân biểu trong quốc hội, và di chuyển nguồn lợi từ thuế má để trang trải cho những phí khoản về y tế và trợ giúp người nghèo. Người trong xã hội tự do này tuy dù phải đóng thuế nhưng người ta không phản loạn vì họ nhận thấy việc đóng thuế là một điều đương nhiên trong khi đó ở xã hội cộng sản – như ở Việt Nam – người ta phải đóng thuế, nhưng tiền thuế đó dân không được hưởng; trái lại, những số tiền đó chỉ có làm giầu cho những người thu thuế và những người này cũng phải “chung tiền” lại cho cấp trên… do đó thuế má trong xã hội cộng sản không đem lại lợi ích gì cho công chúng.
Các mục đồng: Họ là những bần cố nông chỉ biết làm lụng để nuôi sống cho mình và gia đình họ; họ bị kềm chế mọi mặt nhất là về thuế má và không có cơ hội để vươn lên; họ là những người ngày đêm lái xe vận tải hay xe đò, những người chỉ biết làm thợ thuyền trong các công xưởng… họ không có tương lai, nhưng giờ đây họ được thiên thần loan tin là một vị cứu tinh sẽ đến để giải thoát họ trong cảnh lầm than này. Họ rất hoan hỷ khi nghe tin đó vì lý do tại sao nữa?
Thành của David (Lc 2:11): Vua Đavid, theo truyền thống, đã được sinh ra ở Be-Lem (nhà của bánh mì), là vị vua đầu tiên mà Thiên Chúa chọn – người tuy dù nhỏ bé nhưng đã đánh chết người lính thuộc dòng giống khổng lồ (David và Goliad) – để lãnh đạo và làm ổn định xã hội của dân Chúa nơi Đất Hứa. Nhà của bánh này cũng có nghĩa là “Bánh Hằng Sống bở trời” để nuôi sống trần gian (Ga 6:26-58)!
Bọc trong khăn vải sô (Lc 2:12): Vua Salomon là con của Vua Đavid đã viết trong Sách Khôn Ngoan rằng chính ông cũng đã được bọc trong khăn vải sô khi ông chào đời (KN 7:3-6); do đó, Vị Cứu Tinh mà thiên thần loan báo thuộc về dòng giõi David sẽ lên ngôi để cứu họ khỏi cảnh lầm than. Thêm vào đó, các mục đồng biết rằng những con chiên mà họ bán để làm con vật tế sinh sẽ phải là những con chiên không tỳ ố và họ thấy những con chiên lành mạnh tốt đẹp thì họ sẽ để riêng ra để chăm sóc thì sau đó họ mới bán dược nhiều tiền… những con chiên đo sẽ được họ gói bó thật kỹ trong những vải sô như Vua Solomon đã được gói trong đó (tấm – không mịn màng như cám – nhưng vẫn còn êm ấm chứ không như vải gai khó chịu)… Chúa Giêsu cũng đã được tẩm liệm khi chết bằng tấm vải sô… Các mục đồng nghe lời các thiên thần và hiểu ngay là đứa trẻ này sẽ là con chiên làm lễ tế sinh cho họ và họ thấy mừng vui cho số phận của mình. Số phận của bạn thế nào thì bạn đã biết… và trong cảnh trầm luân này, bạn có hy vọng gì thì hãy dâng lời nguyện xin để cho mọi ước vọng của bạn được toại nguyện, và biết thêm rằng: chúng ta chỉ biết cậy nhờ vào Thiên Chùa trong mọi sự mà thôi!
Nằm trong máng cỏ (Lc 2:12): Máng cỏ là chỗ để đồ ăn cho bò lừa và dê chiên. Tuy dù là nơi để nuôi thú vật, Đấng Cứu Tinh này nằm trong máng cỏ cũng là biểu tượng của ơn từ Trời để nuôi sống mọi loài trên trần gian; do đó, khi Chúa Giêsu nói: “Ta là Bánh Hằng Sống, là bánh ban phát từ trời…” (Ga 6:26-58), lời này mang ý nghĩa rất sâu đậm mà các mục tử là những kẻ tin đã hiểu ngay về tin vui này và họ đã tấp tốc đi tìm Đấng Cứu Tinh mà thiên thần đã báo cho họ. Xin bạn hãy cùng vui với tôi, và chúng ta đi tìm Chúa Giêsu Đấng cứu Tinh cho đời mình theo lời của thiên thần loan báo.
Nguyện xin lời của thiên thần và chứng nhân của các mục tử sẽ làm cho anh chị em vui mừng khi chúng ta đón mừng Lễ Chúa Giáng Sinh 2013![Mục Lục]
Thiên Chúa yêu thương con người, Thiên Chúa tạo dựng con người giống hình ảnh của Ngài nhưng rồi tội lỗi đã làm cho tình yêu đó bị vụn vỡ. Thế nhưng, dù con người thế nào đi chăng nữa, Thiên Chúa vẫn yêu thương con người.
Thuở đầu mới tạo dựng, ánh sáng, tình yêu của Thiên Chúa chan hòa và chiếu tỏa trên con người cách riêng nơi ông bà nguyên tổ Ađam – Eva. Điều đáng tiếc là hai ông bà đã không nhận ra hay nói một cách khác là khước từ tình yêu của Thiên Chúa. Từ giây phút hái trái cấm cũng chính là giây phút khước từ tình yêu Thiên Chúa. Khi, ấy bóng tối của tội lỗi đã bao trùm trần gian. Tội lỗi của hai ông bà không dừng lại ở nơi hai ông bà mà ngay chính con của hai ông bà cũng đã khước từ tình yêu Thiên Chúa bằng cách giết hại chính đứa em mình. Cain đã giết Aben cũng chỉ vì hờn ghen, cũng chỉ vì ganh tỵ.
Bóng tối của tội lỗi cứ lan tràn mặt đất. Nhưng, bên cạnh đó, lời hứa của Thiên Chúa chính là lời hứa cứu độ cũng được gởi đến ngay lúc hai ông bà phạm tội. Thiên Chúa đã phán với con rắn: “Mi đã làm điều đó, nên mi đáng bị nguyền rủa nhất trong mọi loài súc vật và mọi loài dã thú. Mi phải bò bằng bụng, phải ăn bụi đất mọi ngày trong đời mi. Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy; dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó.” (St 3, 14.15).
“Dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi”. Dòng giống ấy được tiên báo đó chính là Đức Trinh Nữ Maria. Và, từ Mẹ, Đấng Cứu Độ trần gian được sinh ra như lời đã hứa.
Giữa đêm tối của tội lỗi, giữa bóng tối của kiêu căng có một luồng sáng mới chiếu tỏa, có ơn cứu độ xuất hiện. Ánh sáng, ơn cứu độ đó được Isaia nói trong trang sách hôm nay:
Dân đang lần bước giữa tối tăm
đã thấy một ánh sáng huy hoàng;
đám người sống trong vùng bóng tối,
nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi.
Chúa đã ban chứa chan niềm hoan hỷ,
đã tăng thêm nỗi vui mừng.
Họ mừng vui trước nhan Ngài
như thiên hạ mừng vui trong mùa gặt,
như người ta hỷ hoan khi chia nhau chiến lợi phẩm.
Vì cái ách đè lên cổ dân, cây gậy đập xuống vai họ,
và ngọn roi của kẻ hà hiếp, Ngài đều bẻ gãy như trong ngày chiến thắng quân Mađian. (Is 9, 1-3)
Và, Isaia cũng loan báo:
Vì một trẻ thơ đã chào đời để cứu ta, một người con đã được ban tặng cho ta. Người gánh vác quyền bính trên vai, danh hiệu của Người là Cố Vấn kỳ diệu, Thần Linh dũng mãnh, người Cha muôn thuở, Thủ Lãnh hoà bình. Người sẽ mở rộng quyền bính, và lập nền hoà bình vô tận cho ngai vàng và vương quốc của vua Đavít. Người sẽ làm cho vương quốc được kiên cố vững bền trên nền tảng chính trực công minh, từ nay cho đến mãi muôn đời. Vì yêu thương nồng nhiệt, Đức Chúa các đạo binh sẽ thực hiện điều đó”.
Thế đấy ! Cũng chính vì yêu thương, Đức Chúa sẽ thực hiện điều đó cho dân.
Lời hứa cứu độ mà Đức Chúa hứa ở vườn Địa Đàng, lời hứa mà Đức Chúa qua miệng ngôn sứ Isaia loan báo đó được thực hiện vào thời Đức Trinh Nữ Maria.
Thánh sử Luca ghi lại thời gian, không gian rất rõ ràng: “Thời ấy, hoàng đế Augúttô ra chiếu chỉ, truyền kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ. Đây là cuộc kiểm tra đầu tiên, được thực hiện thời ông Quiriniô làm tổng trấn xứ Xyri. Ai nấy đều phải về nguyên quán mà khai tên tuổi. Bởi thế, ông Giu-se từ thành Nadarét, miền Galilê lên thành vua Đavít tức là Bêlem, miền Giuđê, vì ông thuộc gia đình dòng tộc vua Đavít. Ông lên đó khai tên cùng với người đã thành hôn với ông là bà Maria, lúc ấy đang có thai. Khi hai người đang ở đó, thì bà Maria đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa. Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ”. (Lc 2, 1-7).
Hôm nay muôn dân đã được thấy Ánh Sáng của Thiên Chúa. Ánh Sáng của Thiên Chúa không như ánh sáng của thế gian. Ánh Sáng của Thiên Chúa đến nhưng rồi ta lại bắt gặp những con người hết sức đơn sơ nghèo hèn đến gặp Ánh Sáng chính là những mục đồng. Những mục đồng chăn chiên, chúng ta biết rằng cuộc sống và đời của họ như thế nào. Nay đây mai đó, chẳng có gì là ổn định, chẳng có gì là bảo đảm cho cuộc sống của họ cả và rồi nghe tiếng của thiên thần, họ đã đến và tìm gặp Ánh Sáng của Thiên Chúa.
Ánh Sáng của Thiên Chúa đã đến trần gian này hơn hai ngàn năm rồi nhưng Ánh sáng đó vẫn bị khước từ như những chủ quán trọ ngày xưa, như những người Biệt Phái và Luật Sĩ ngày xưa. Họ là những người giữ đạo rất tốt và họ cũng đang mong chờ Đấng Mêsia đến với đời họ nhưng rồi họ không tìm gặp được Đấng mà họ mong đợi bởi lẽ suy nghĩ của họ khác, cái nhìn của họ khác và cung cách sống của họ khác.
Những mục đồng đơn sơ nghèo hèn đã đến và đã thờ lạy Ánh Sáng. Không chỉ dừng ở chỗ đến thờ lạy mà các mục đồng cũng đã đi loan báo tin vui Đấng Cứu Độ đã đến trần gian. Lời loan báo cứu độ có đó nhưng rồi mấy ai đón nhận lời đó.
Thánh Gioan đã nhắc nhớ sự khước từ của lòng người:
Ngôi Lời là ánh sáng thật,
ánh sáng đến thế gian
và chiếu soi mọi người.
Người ở giữa thế gian,
và thế gian đã nhờ Người mà có,
nhưng lại không nhận biết Người.
Người đã đến nhà mình,
nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận.
Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người,
thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa. (Ga 1, 9-12)
Ai tin và đón nhận Ánh Sáng vào trong đời mình sẽ được trở nên con Thiên Chúa
Khi Ánh Sáng xuống trần gian, ta thấy muôn vàn thiên binh hợp với sứ thần cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa rằng: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương.” Thiên Chúa đã gửi Ánh Sáng xuống trần gian để mang ơn cứu độ đến cho muôn người rồi nhưng liệu rằng người ta có đón nhận Ánh Sáng đó hay không mà thôi.
Mừng kỷ niệm Chúa Giáng Sinh không phải là mừng một biến cố, mừng một kỷ niệm để rồi tổ chức lễ nghi linh đình và tiệc tùng hoành tráng. Mừng kỷ niệm Chúa Giáng Sinh để nhắc nhớ ta rằng Ánh Sáng đã đến thế gian thật rồi. Hãy mở lòng ra đón nhận Ánh Sáng đó vào trong cuộc đời chúng ta.
Tâm tình Thánh Phaolô trong thư gửi cho Titô thật hay: Quả thế, ân sủng của Thiên Chúa đã được biểu lộ, đem ơn cứu độ đến cho mọi người. Ân sủng đó dạy chúng ta phải từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục, mà sống chừng mực, công chính và đạo đức ở thế gian này
Để mừng Đại Lễ Giáng Sinh thật ý nghĩa, chắc có lẽ chúng ta cũng phải nhìn lại cuộc đời của mỗi người chúng ta để ngày mỗi ngày bớt đi lòng đam mê trần tục, sống chừng mực và công chính. Chỉ có như thế Ân Sủng của Ánh Sáng mà Thiên Chúa trao ban mới có thể đến và ở lại trong cuộc đời của ta được.[Mục Lục]
LỄ GIÁNG SINH
Một bạn giáo lý viên mới mua điện thoại iphone, đến khoe và hỏi tôi: tại sao quả táo trên iphone bị khuyết mất một góc? Tôi lên google tìm câu trả lời và thú vị biết thêm mấy quả táo đặc biệt nữa.
Trong lịch sử nhân loại có ba quả táo nổi tiếng liên quan đến đời sống con người. Đó là quả táo của bà Evà trong trình thuật sách Sáng thế, quả táo của Newton trong định luật vạn vật hấp dẫn và quả táo của hãng Apple qua ứng dụng ipad iphone không ngừng cải tiến.
- Quả táo Newton
Isaac Newton (1642-1727) là nhà vật lý, toán học nước Anh, người được thế giới tôn là “người sáng lập ra vật lý học cổ điển”. Ông đã khám phá ra “Nguyên lý vạn vật hấp dẫn”. Đây là nguyên lý cơ sở cho những phát minh vật lý học, cơ học, thiên văn học trong nhiều thế kỷ.
Vào một ngày mùa thu, Newton ngồi trên chiếc ghế trong vườn hoa đọc sách, bỗng nhiên một quả táo từ cây rơi xuống “bịch” một tiếng trúng đầu Newton. Ông xoa đầu, nhìn quả táo chín lăn xuống vũng bùn. Quả táo đã cho ông một gợi ý làm ông nghĩ miên man.Quả táo chín rồi, tại sao lại rơi xuống đất? Tại vì gió thổi chăng? Không phải, khoảng không rộng mênh mông, tại sao lại phải rơi xuống mà không bay lên trời chứ? Như vậy trái đất có cái gì hút nó sao? Mọi vật trên trái đất đều có sức nặng, hòn đá đã ném đi rốt cuộc lại rơi xuống đất, trọng lượng của mọi vật có phải là kết quả của lực hút trái đất không?
Sau này Newton nêu ra: mọi vật trên trái đất đều chịu sức hút của trái đất, mặt trăng cũng chịu sức hút của trái đất, đồng thời trái đất cũng chịu sức hút của mặt trăng; trái đất chịu sức hút của mặt trời, mặt trời đồng thời cũng chịu sức hút của trái đất. Nói một cách khác là vạn vật trong vũ trụ đều có lực hấp dẫn lẫn nhau. Vì có loại lực hấp dẫn này mà mặt trăng mới quay quanh trái đất, trái đất mới quay quanh mặt trời.
Chuyện quả táo rơi xuống đất chứng tỏ trái đất có lực hút quả táo, đương nhiên quả táo cũng có lực hút của trái đất, nhưng lực hút của trái đất đối với quả táo lớn nên quả táo rơi xuống đất. Nếu ta coi mặt trăng là một quả táo khổng lồ, như vậy trái đất cũng có lực hút nó, vậy tại sao nó không rơi xuống mặt đất? Vì mặt trăng là một quả táo lớn, sức hút của trái đất đối với nó không đủ để làm nó rơi xuống đất, chỉ có thể làm nó quay quanh trái đất mà thôi. Đối với mặt trời thì trái đất cũng là một quả táo khổng lồ, nó quay quanh mặt trời.
Vào buổi tối khi nhìn lên bầu trời thấy vô vàn những vì sao đang nhấp nháy, giữa chúng đều có lực hút lẫn nhau. Đây chính là định luật “Vạn vật hấp dẫn” nổi tiếng của Newton.
- Quả táo Steve Jobs
Apple Inc là tập đoàn công nghệ máy tính của Hoa Kỳ.Theo số liệu khảo sát đầu năm 2013 của IDC, Apple đã trở thành hãng điện thoại lớn thứ nhất thế giới, đứng trước Nokia và Samsung. Hàng của Apple nổi tiếng là đẹp, vừa toát lên vẻ hiện đại, kỹ nghệ cao, vừa tiện dụng. Logo đầu tiên của hãng do Steve and Wayne thiết kế năm 1976 vẽ hình nhà vật lý Isaac Newton ngồi dưới gốc cây táo và có dòng chữ Apple Computer Co quấn quanh.Sau đó, logo đã được thay đổi bởi nhà thiết kế Rob Janoff với một quả táo màu cầu vồng (vì nó có nhiều màu sắc) và bị cắn một bên phải được cho là để kỷ niệm sự kiện khám phá lực hút trái đất và sự tán sắc ánh sáng của Isaac Newton.Qua vài năm, logo Apple xuất hiện với nhiều màu sắc khác nhau và đến giờ thì chỉ sử dụng màu trắng hoặc màu crôm bạc.Theo quan niệm của người phương Tây thì táo tượng trưng cho sức mạnh, sự khám phá và cái đẹp cao quý.Còn về chi tiết quả táo bị cắn mất một miếng phía bên phải cũng có một cách lý giải khác là xuất phát từ một quả táo nguyên vẹn, nhưng Steve Jobs cho là Apple chưa thực sự hoàn hảo, và ông luôn muốn đi tìm kiếm sự hoàn hảo, coi như là một thông điệp để nhắc nhở các nhân viên phải luôn sáng tạo.
- Quả táo Evà
Sách Sáng Thế kể về công trình sáng tạo tốt đẹp, vũ trụ chào đời, mùa xuân về theo gió, nắng phủ cho rừng lá xanh, muôn hoa xinh tươi vẫy gọi. Thiên Chúa chúc lành trao quyền làm chủ muôn loài cho Nguyên Tổ với một điều kiện duy nhất là phải tuân phục: “Mọi cây trong vườn ngươi đều được ăn. Nhưng cây ‘sự biết tốt xấu’ ngươi không được ăn, vì chưng ngày nào ngươi ăn nó, tất ngươi phải chết” (St 2,16-17).
Ađam, Evà phơi phới trong hạnh phúc mùa xuân địa đàng.Thế rồi một hôm, Evà đi dạo một mình trong vườn Eđen, ngang qua cây biết lành biết dữ. Không may gặp phải Satan quyến rũ. Lời Satan đường mật: Evà, Evà ơi, cô có muốn giữ mãi nhan sắc tuyệt vời này không? hay cô có muốn bằng Đức Chúa Trời không? Evà phản kháng: không dám đâu, không dám đâu, đừng dụ dỗ tôi, Thiên Chúa đã dặn kỹ lắm rồi. Sau một hồi đôi co lý sự, con rắn ngọt ngào: “Chẳng chết chóc gì đâu, Thiên Chúa biết ngày nào người hái quả táo ấy mà ăn mắt các ngươi sẽ mở ra và các ngươi sẽ nên như Thiên Chúa, biết cả tốt xấu” (St 3, 4-5).Người thiếu nữ thấy giấc mơ đẹp như màu hồng của quả táo “nhìn thì đã thấy sướng mắt” (St 3,6). Nàng đã hái. Nàng đã ăn. Nàng chia cho chồng với ước mơ hão huyền là chồng được thông minh như Thiên Chúa.
Còn Ađam thì sao? Một cuộc đấu tranh quyết liệt giữa tiếng lương tâm và lời nài nỉ của người yêu: ăn đi anh, ăn đi, đây là cơ hội ngàn vàng, cơ hội chúng ta bằng Đức Chúa Trời đó anh; Ađam đừng ăn, nếu ăn sẽ vi phạm luật Chúa truyền, đừng, xin đừng…“Và ông đã ăn” (St 3,6). Lời Thánh Kinh ngắn gọn diễn tả sự yếu đuối, nhu nhược đến sa ngã của Ađam trước cám dỗ quá ư dịu ngọt. Thôi rồi, xong hết cả rồi, còn đâu địa đàng, còn đâu ân nghĩa Thiên Chúa dành cho ngươi, Ađam ơi !
Nguyên Tổ cắn vào quả táo “Mắt họ liền mở ra và họ thấy mình trần truồng nên kết lá vả che thân” (St 3,7). Kể từ đó Địa Đàng đóng ngõ cài then. Xuân Địa Đàng đã thành mùa đông ảm đạm cho trần thế. Kinh Thánh viết về một nổi đớn đau làm sao: “Những gai cùng góc nó sẽ mọc lên cho ngươi, ngươi sẽ ăn cỏ lả ngoài đồng nội. Mồ hôi đẫm mặt, ngươi mới có bánh ăn cho đến lúc ngươi về lại với bụi đất” (St 3,18-19).
- Giáng sinh đất trời giao duyên
Trong ba quả táo đó thì quả táo của bà Evà có tầm vóc và mức độ ảnh hưởng sâu rộng hơn cả, không chỉ ghi dấu trên một thế hệ mà còn “gây hậu quả nghiêm trọng” đến sự tồn vong của cả nhân loại gọi là “Tội Tổ Tông”.
Nhưng cũng từ ngày quả táo Eva nhiễm nộc độc Satan, nhân loại lại được nghe vang lên lời hứa của Thiên Chúa: một người thuộc dòng giống người nữ sẽ đến giải cứu “Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà,giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy;dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó” (St 3,15). Một người trong dòng giống người nữ, đó là Đấng Cứu Thế (Gl 4,4). Người nữ ấy chính là Đức Maria (Lc 1,30-33). Thiên Chúa không bỏ rơi con người dưới quyền lực sự dữ.Người hứa sẽ thực hiện cứu độ con người và nhân loại. Niềm tin đó đi liền với niềm hy vọng. Nên từ đó, lời kinh cầu luôn vang vọng qua các thế hệ: “Trời cao hãy đổ sương xuống và ngàn mây hãy mưa Đấng Chuộc Tội. Trời cao hãy đổ sương xuống và ngàn mây hãy mưa Đấng cứu đời”.
Thiên Chúa đã nghe tiếng vọng cầu kinh. Ngài đã sai Con Một của Ngài xuống thế làm người để cứu rỗi nhân loại. Con Thiên Chúa vào đời nối lại tình người với tình thánh, làm nhịp cầu liên kết con người với Thiên Chúa và nối kết con người với nhau. Bởi vậy, Mầu nhiệm Nhập Thể chính là Mầu nhiệm Tình Yêu. Thiên Chúa yêu thương nhân loại nên đã ban chính Con Một của mình đến trần gian làm người để cứu nhân loại khỏi tội lỗi, để đem ơn bình an cho con người.Thánh Luca ghi lại dấu chỉ để nhận ra Tình Yêu Thiên Chúa, đó là “một Hài Nhi bọc tã, nằm trong máng cỏ”.
Trong đêm Đấng Cứu Thế Giáng Sinh, Sứ thần loan báo cho các mục đồng: “Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng sẽ là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, Đấng Cứu Thế đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đavít, Người là Đấng Kitô, là Đức Chúa“ (Lc 2, 11). Khung cảnh thật đơn sơ, thanh bạch, nghèo hèn: “Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ” (Lc 2,12). Dấu chỉ quá bình thường, chẳng có gì đặc biệt.
Mẹ Maria và Thánh Giuse vất vả một hành trình xa xôi từ Nadarét về Bêlem để kê khai nhân hộ khẩu.Các quán trọ khinh người nghèo hất hủi. Hài Nhi Giêsu chào đời nơi đồng hoang giá lạnh. Chẳng có ai thân thích. Chỉ có các mục đồng và bò lừa sưởi ấm.
Chẳng có gì kỳ diệu, không có gì ngoại thường, không có gì huy hoàng được trưng dẫn như một dấu chỉ cho những mục đồng.Tất cả những gì họ thấy chỉ là một Hài Nhi bọc tã, một hài nhi như bao hài nhi khác, cần sự chăm sóc của người mẹ; một Hài Nhi sinh ra trong chuồng súc vật, và như thế, không nằm trong nôi nhưng là trong máng cỏ. Dấu chỉ của Thiên Chúa là một hài nhi cần sự trợ giúp và đang sống trong nghèo khó. Chỉ bằng con tim, những mục đồng mới có thể thấy nơi Hài Nhi này sự viên mãn lời hứa của tiên tri Isaia: “Một trẻ thơ đã chào đời để cứu ta, một người con đã được ban tặng cho ta. Người gánh vác quyền bính trên vai” (Is 9,5).
Dấu chỉ của Thiên Chúa thật là đơn sơ. Đó là một Hài Nhi mới sinh. Dấu chỉ của Thiên Chúa là Ngài trở nên bé nhỏ vì chúng ta. Ngài không đến với quyền lực và một bề ngoài xa hoa. Ngài đến như một hài nhi cần sự giúp đỡ của chúng ta. Ngài không muốn choáng ngợp chúng ta với sức mạnh của Ngài. Vì thế, Ngài đã hóa chính mình thành nhỏ bé. Ngài không muốn điều gì khác nơi chúng ta ngoại trừ tình yêu, qua đó chúng ta phải học biết cách tiếp cận với cảm giác, tư duy và ý chí của Ngài. Chúng ta học biết sống với Ngài và thực hành với Ngài sự khiêm hạ từ bỏ mình là điều tinh túy nhất của tình yêu. Ngài đã hóa thành nhỏ bé để chúng ta có thể hiểu Ngài, chào đón Ngài, và yêu thương Ngài.
Theo Thánh Kinh, biến cố lớn nhất đánh dấu lịch sử nhân loại là Thiên Chúa làm người vì tình yêu. Hài Nhi Giêsu ra đời trong cảnh nghèo hèn chính là một vị Thiên sai. Ngài đã cắt đôi dòng lịch sử loài người thành hai phần: trước công nguyên và sau công nguyên. Em bé ấy không phải là một nhà bác học, không phải là một nhạc sĩ mà chính là Thiên Chúa, là Ngôi Lời vĩnh cửu của Chúa Cha, Đấng cao sang, quyền năng, Đấng sáng tạo vũ trụ, hôm nay đã làm người. Ngài giáng sinh làm người trong thân phận một em bé yếu ớt nằm trong máng cỏ hang lừa chứ không phải trong một cung điện sang trọng lầu son gác tía.
Thiên Chúa làm người trong thân phận một bé thơ yếu ớt nhưng chất chứa một tình yêu lớn lao. Một trẻ thơ sinh ra vào một đêm đông giá rét trong hang đá bò lừa ngoài đồng hoang nghèo hèn. Dưới con mắt người đương thời không những bình thường mà còn tầm thường hơn những trẻ thơ khác. Nhưng sự chào đời của Hài Nhi Giêsu là một niềm vui cao cả, trọng đại, đặc biệt. Một niềm vui khởi điểm cho mọi niềm vui và vượt lên trên mọi niềm vui.
Hài Nhi giáng sinh là một sự kiện đặc biệt của lịch sử nhân loại, là sự “hoàn tất” Lời Hứa của Thiên Chúa, là trung tâm của nhiệm cuộc cứu độ của Thiên Chúa, là đỉnh cao và là chủ đích của Thánh Kinh.
Chính nơi Ngôi Lời Nhập Thể, Thiên Chúa đã hoàn toàn tỏ mình và ban chính mình cho nhân loại. Ngôi Lời Nhập Thể là tuyệt đỉnh thời gian viên mãn đối với Ba Ngôi Thiên Chúa.
Hài Nhi Giêsu đã trở nên một sự tái tạo mới. Tái tạo khởi đi từ tha thứ và yêu thương của Thiên Chúa Ba Ngôi.
Mầu nhiệm Nhập Thể và mầu nhiệm Cứu Độ làm nên trọng tâm sứ điệp của đức tin Kitô giáo. Từ thế kỷ này đến thế kỷ khác, Giáo Hội công bố niềm tin ấy dọc dài thời gian giữa những thách đố của thế giới. Giáo Hội uỷ thác cho con cái mình như kho tàng quí giá để gìn giữ và chia sẻ cho người khác. Nơi Đức Giêsu Kitô, Đấng sinh ra tại Bêlem, Thiên Chúa nhận lấy thân phận con người để chúng ta có thể đến được với Thiên Chúa và để thiết lập giao ước với loài người và con người giao ước liên đới với nhau.
Giáng Sinh trở thành một đại lễ của nhân loại. Giáng Sinh là ngày hội lớn duy nhất trên trái đất được đón mừng bởi mọi quốc gia, mọi sắc tộc, mọi tầng lớp xã hội. Từ núi cao, trong rừng sâu, xuống đồng bằng, vào thị tứ giàu sang…. Qua đủ mọi hình thức: nhóm vài cây củi trên rừng, thắp ngọn nến đơn sơ trong ngôi nhà thờ bé nhỏ nghèo nàn vùng quê hẻo lánh, hay trăm ngàn ánh đèn muôn màu rực rỡ chốn đô hội văn minh tráng lệ, khắp nơi đón mừng và cùng hát lên tâm tình:“Vinh danh Thiên Chúa trên trời Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” (Lc 2,14)
Giáng Sinh, đất trời giao duyên trong hôn phối nhiệm mầu của tình yêu cứu độ. Thiên Chúa làm người, nối nhịp cầu tương giao giữa Thiên Chúa và nhân loại, bắc nhịp cầu nối liền giữa con người với nhau.Thiên Chúa yêu thương con người và muốn mọi người đáp lại bằng lòng yêu mến Ngài và yêu thương nhau. Dấu chỉ của tình yêu nằm nơi sự đơn sơ của tấm khăn bọc Hài Nhi, đó là sự chân tình không lừa lọc giả dối.Dấu chỉ của tình yêu ở nơi sự nghèo hèn của máng cỏ, đó là sự phó thác hoàn toàn nơi Thiên Chúa không cậy dựa vào vật chất thế gian.
Nguyện xin Chúa Giêsu Hài Đồng ban cho mỗi người chan chứa ân sủng và bình an của Tình Yêu Thiên Chúa.[Mục Lục]
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Thánh Gioan đã nói: “Thiên Chúa yêu thế gian đã tặng ban Con Một của Ngài cho thế gian”. Người Con của Lời hứa. Người Con mà cả dọc dài lịch sử dân thánh luôn khắc khoải mong chờ. Ngài chính là Thái Tử Bình An. Ngài đến để ban bình an xuống cho nhân trần như lời các thiên thần ca hát: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời. Bình an dưới thế cho người lòng ngay”.
Vâng thưa anh chị em, món quà mà nhân loại luôn khao khát mong chờ không phải là cơm áo gạo tiền mà là niềm vui của bình an hoan lạc. Có tiền mà sống trong loạn lạc, có lẽ cũng chẳng có bụng dạ nào để no say hưởng thụ. Có tiền mà không có lương tâm an bình có lẽ cũng chẳng có niềm vui và hạnh phúc từ trong sâu thẳm tâm hồn.
Cách đây hơn 20 năm vào mùa Giáng sinh năm 1989, trong cuộc họp thượng đỉnh tại đảo Malta, Tổng thống Bush cha đã tặng chủ tịch Gorbachov của liên bang Xô Viết một viên gạch. Viên gạch này mà một thời nó đã góp phần làm nên một bức tường “ô nhục Bá Linh”. Một bức tường ngăn cách tình người. Tình người trong một đất nước, một dân tộc. Một sự ngăn cách tưởng chừng như vô bờ, thế mà hôm nay bức tường này đã được đập bỏ. Tổng thống Bush tặng viên gạch này như dấu chỉ một khao khát hoà bình. Một khao khát sống liên đới thuận hoà để con người cùng nhau xây dựng một thế giới an bình và thịnh vượng.
Thiên Chúa cũng đã tặng ban cho chúng ta không phải là một viên gạch vô tri, vô giác mà là chính Ngôi Hai Thiên Chúa giáng sinh làm người. Ngài đã mang lấy thân phận con người để đưa con người trở về với Thiên Chúa. Con người là hình ảnh Thiên Chúa, thế nên con người phải sống đúng với phẩm giá làm người của mình. Ngài đến để ban bình an, nhưng Ngài cũng đòi con người hợp tác để bình an của Chúa được trải rộng khắp muôn nơi. Dấu chỉ của sự hợp tác tích cực mà Chúa muốn con người là: hãy tặng lại cho Ngài chính hình ảnh trong sáng, ngay thẳng, đầy yêu thương mà Ngài đã tạo dựng con người ngay từ ban đầu.
Trong kỳ họp Apec tổ chức tại Việt Nam, các thành viên đều nhận được một món quà là chính hình ảnh của mình được các nghệ nhân Việt Nam điêu khắc trên đá. Có lẽ đó là món quà qúy giá mà các nguyên thủ các quốc gia đã nhận được từ các nghệ nhân Việt Nam. Họ đã đến Việt Nam và họ đã nhận lại được hình ảnh của họ từ những con người rất hiếu khách của dân tộc Việt Nam. Một dân tộc luôn ưa chuộng hoà bình, luôn lấy “dĩ hoà vi qúy” làm nền tảng cho mọi giao tiếp hằng ngày. Một dân tộc luôn đề cao tình làng nghĩa xóm đến mức độ “tối lửa tắt đèn có nhau”, để rổi sống liên đới chia sẻ với nhau trong tình thần “chị ngã em nâng” và “lá lành đúm lá rách”. Nhất là luôn sống tha thứ cho nhau để có được một cuộc sống vui tươi an bình, vì “một điều nhịn chín điều lành”. Đó cũng là những hình ảnh rất đẹp mà các nguyên thủ các quốc gia đến họp hội nghị Apec đã thấy nơi nền văn hoá Việt Nam. Thế nhưng, thử hỏi lại lòng mình, chúng ta đã thực sự sống điều đó để giữ mãi bản sắc tươi đẹp của văn hoá dân tộc Việt Nam? Với bốn ngàn năm văn hiến, chúng ta đã thực sự sống những nét cao đẹp của văn hoá Việt Nam mà cha ông đã để lại cho chúng ta hay chưa? Hay chúng ta đang quên dần, và cố đuổi theo những trào lưu hưởng thụ, thoái hoá đạo đức, băng hoại luân lý và xa rời tình người?
Với tư cách là người kytô hữu, là những con người luôn ý thức mình mang hình ảnh Thiên Chúa, thế nhưng chúng ta còn giữ sự tinh tuyền của Ngài nơi tâm hồn chúng ta hay không? Hay hình ảnh của Ngài đã bị hoen ố bởi thói hư tật xấu của chúng ta? Có lẽ trong giờ phút này, Thiên Chúa cũng đang cần chúng ta tặng lại cho Ngài hình ảnh tinh tuyền ban đầu của tạo dựng. Một hình ảnh trong sáng không bỉ hoen ố bởi đam mê nhục dục, bởi tham vọng thống trị anh em và tham lam vô độ. Một hình ảnh chân thật không quanh co, giả dối đến nham hiểm hại người hại đời. Một hình ảnh đầy tình yêu không bị những toan tính trục lợi, những bất công lừa đảo, và lỗi công bình bác ái với anh em. Tất cả những cách sống sai lệch với hình ảnh ban đầu của tạo dựng, đã làm mờ nhạt đi hình ảnh của Thiên Chúa nơi cuộc sống thường nhật của chúng ta. Và là bức tường ngăn trở cho nước Chúa trị đến, cho an bình của Chúa trải rộng khắp muôn nơi.
Mỗi người chúng ta được mời gọi sống thánh giữa đời, được cụ thể qua việc tuân giữ hai giới răn quan trọng nhất đó là Mến Chúa trên hết mọi sự và yêu thương anh em như chính mình. Mến Chúa trên hết mọi sự nghĩa là phải để cho Ngài chỗ nhất trong cuộc sống. Đừng vì những đam mê danh lợi thú mà quên đi giá trị đích thực của phẩm giá con người là hình ảnh của Chúa. Con người được gọi là “nhân linh ư vạn vật”, nghĩa là con người hơn muôn loài vật. Không loài nào sánh bằng con người. Không loài nào xứng đáng để con người tôn thờ. Do vậy, chỉ có Thiên Chúa mới đáng cho chúng ta tôn thờ. Tiền bạc, địa vị, sắc dục chỉ là thọ tạo thấp bé và rất tầm thường so với con người. Vì thế đừng vì nó mà bỏ quên Chúa. Đừng vì nó mà xúc phạm đến anh em. Đồng thời, mến Chúa phải yêu mến anh em. Yêu mến không chỉ trên đầu môi chóp lữơi, nhưng bằng những hành động cụ thể: đó là kính trọng anh em, là sống công bình bác ái với anh em, và đỉnh cao của tình yêu là sự dấn thân phục vụ anh em trong khiêm tốn và chân thành.
Lạy Chúa, Chúa đã sinh ra trong thân phận con người. Chúa đã tự đồng hoá mình với những người khổ đau. Xin cho chúng con luôn nhận ra Chúa trong anh em để chúng con luôn đối xử với nhau trong công bình, bác ái, trong kính trọng và yêu thương. Xin giúp chúng con luôn biết gìn giữ hình ảnh tinh tuyền của Chúa nơi chúng con. Xin gìn giữ linh hồn chúng con khỏi những đam mê bất chính làm hoen mờ hình ảnh Chúa nơi chúng con. Amen.[Mục Lục]
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Có một bà mẹ kể rằng: Một cơn bão vừa tàn phá thị trấn nhỏ gần thành phố của chúng tôi làm nhiều gia đình phải sống trong cảnh khốn khó. Tất cả các tờ báo địa phương đều đăng hình ảnh và những câu chuyện thương tâm về một số gia đình mất mát nhiều nhất. Có một bức ảnh làm tôi xúc động. Một phụ nữ trẻ đứng trước ngôi nhà đổ nát của mình, gương mặt hằn sâu nỗi đau đớn. Đứng cạnh bà là một cậu bé chừng 7 hay 8 tuổi, mắt nhìn xuống. Đứa con gái nhỏ bám chặt quần mẹ, nhìn chằm chặp vào máy ảnh, mắt mở to vẻ bối rối và sợ hãi. Bài báo đi kèm cùng kêu gọi mọi người giúp đỡ những người trong gia đình đó. Tôi nhận thấy đây sẽ là một cơ hội tốt để dạy các con mình giúp đỡ những người kém may mắn hơn.
Tôi đưa tấm ảnh gia đình đó cho các con tôi xem, giải thích nỗi khổ của họ cho hai đứa con trai sinh đôi 7 tuổi và đứa con gái 3 tuổi. Tôi bảo chúng: “Chúng ta có quá nhiều trong khi những người này bây giờ không còn gì cả. Chúng ta hãy chia sẻ với họ những gì mình có”. Tôi và hai con trai chất vào thùng cứu trợ nào đồ hộp và xà bông, mì gói… Tôi cũng khuyến khích chúng chọn ra một số đồ chơi mà chúng không chơi nữa. Đứng nhìn hai anh sắp xếp mọi thứ, con gái tôi có vẻ nghĩ ngợi. Tôi nói với con: “Mẹ sẽ giúp con tìm một thứ gì đó cho em bé trong ảnh”.
Trong lúc hai anh mình đặt những món đồ chơi cũ chúng đã chọn vào thùng, con gái tôi đi vào, tay ôm chặt con búp bê cũ kỹ nhạt màu, tóc rối bù, nhưng là món đồ chơi nó yêu thích nhất. Nó ôm hôn con búp bê lần chót trước khi bỏ vào thùng. Tôi nói: “Con không cần phải cho nó, con thương nó lắm mà”.
Con gái tôi gật đầu nghiêm trang: “Nó đem lại niềm vui cho con mẹ ạ, có lẽ nó cũng sẽ đem lại niềm vui cho bạn kia”.
Khi bạn tặng hoa, bạn sẽ chọn một hông hoa đẹp nhất để tặng. Khi bạn chọn một tặng vật, bạn cũng gởi gắm một sứ điệp nào đó qua món quà. Người ta nói: “Vượt lên trên món quà là cả một tấm lòng”. Quà tặng không dựa trên giá trị vật chất nhưng quan trọng ở tấm lòng người tặng. Thế nhưng, con người chúng ta thường dễ dàng đem cho những thứ mình bỏ đi, ít ai dám đem tặng những cái mình yêu thích nhất. Điều đó chưa hẳn phát xuất từ tấm lòng nhạy cảm trước nhu cầu tha nhân, mà thường là việc làm chiếu lệ cho qua. Lòng nhân ái thực sự là đem cho những gì mình yêu quý nhất. Sự chia sẻ chân thành là lòng mong muốn người khác cũng được vui tươi, được hạnh phúc như chính mình. Đó mới thực sự là nghĩa cử cao đẹp của người có tấm lòng quảng đại, vị tha.
Thiên Chúa cũng dành một món quà vô cùng quý giá cho con người, chính là cho Con Một Ngài giáng trần. Ngài là Emmanuel ở giữa nhân loại. Ngài là niềm vui cho những mảnh đời bất hạnh lầm than. Qua Ngôi Lời giáng thế, Thiên Chúa đã đi sâu vào kiếp người chúng ta. Thiên Chúa có thể chia sẻ buồn vui trong kiếp người chúng ta. Thiên Chúa có thể lau khô những giọt nước mắt lầm than cho những người nghèo khổ, cho những kẻ tật nguyền. Vâng, Chúa đã làm người nên Ngài có thể hiểu được nhu cầu của con người. Ngài có thể thông chia những vui buồn cùng con người. Chính Ngài đã đi cùng con người qua những thăng trầm của đời người. Chính Ngài cũng muốn nếm cảm sự mỏng dòn của kiếp người vô thường: sinh – bệnh – lão – tử. Chính Ngài đã đi đến tột cùng của hiến dâng là dám chết cho người mình yêu.
Như vậy, sứ điệp của giáng sinh là trao ban, là chia sẻ, là bác ái cảm thông. Chúa giáng sinh là món quà quý báu mà Thiên Chúa Cha đã tặng ban cho trần gian. Đồng thời, khi chiêm ngắm Ngôi Hai Thiên Chúa trong hình hài một hài nhi yếu đuối, Ngài cũng mời gọi chúng ta hãy dành cho Ngài một chút chia sẻ tình thương. Ngài cũng cần chúng ta thi thố tình thương cho Ngài. Ngài đã sinh ra trong cảnh cơ hàn. Ngài đã và đang thiếu thốn tư bề. Ngài đang cần chúng ta làm điều gì đó cho Ngài. Như các mục đồng năm xưa đã dâng cho Hài Nhi Giêsu những con lừa, con bò, những cọng rơm để sưởi ấm cho Chúa. Hôm nay, Chúa cũng đang đồng hoá mình trong thân phận những con người lầm than, cơ hàn. Ngài đang cần chúng ta chia sẻ một chút tình người, một chút lòng bác ái, một chút tinh thần dấn thân phục vụ để xoa dịu nỗi đau thể xác và tinh thần trên những con người bất hạnh mà chúng ta gặp trên mọi nẻo đường. Có thể chúng ta đang mang trong mình những dự tính thật lớn lao để phục vụ anh em, nhưng thực ra, Thiên Chúa đang cần chúng ta phục vụ Ngài từ những việc rất bình thường trong đời sống hằng ngày. Vâng, một cái nhìn cảm thông và một nụ cười khích lệ tưởng như nhỏ nhoi, chẳng đáng kể, nhưng điều đó lại có thể xua tan những mây mù giữa trần đời và kiến tạo mùa xuân yêu thương cho trần gian. Một đồng tiền lẻ, một chén gạo tình thương xem ra thật nhỏ bé nhưng có thể làm ấm lòng bao người đang đói rách tư bề.
Vâng, Chúa giáng sinh đang tiếp tục giáng sinh trong trần thế qua những thân phận bất hạnh, yếu đuối, bị bỏ rơi. Ngài đang cần chúng ta đến với Ngài trong yêu mến và phục vụ chân thành như các mục đồng năm xưa. Đây chính là lời mời gọi thiết thực nhất từ hang đá Belem. Chúa Giáng sinh đang cần bạn và tôi không chỉ đến thờ lạy Ngài mà còn dâng tặng cho Ngài một chút tình thương để sưởi ấm Ngài trong đêm thâu giá lạnh.
Ước gì mỗi người chúng ta khi mừng Chúa Giáng sinh chúng ta cũng biết nghĩ đến những người nghèo chung quanh chúng ta. Xin đừng lạnh lùng, vô cảm trước những bất hạnh của tha nhân. Ước gì tình người chúng ta được liên đới với nhau bằng sợi dây yêu thương sẽ làm cho việc kỷ niệm Con Chúa Giáng sinh thêm nồng ấm tình thương. Amen.[Mục Lục]
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Lễ Noel là lễ của chia sẻ, lễ của bác ái. Chia sẻ không chỉ cơm bánh, gạo tiền cho anh em nghèo khó mà còn chia sẻ tình người cho anh em đang sống chung quanh chúng ta. Vì con người sống cần cơm bánh để lớn lên và cũng rất cần tình thương để tồn tại. Chính vì lẽ đó, mà khi nhập thể làm người Chúa Giêsu đã không chọn sinh ra trong cung điện nguy nga, trong hoàng thân quốc thích. Ngài đã sinh ra trong cơ hàn, trong một gia đình lao động bình thường giữa chúng sinh. Ngài còn đồng hoá mình với những con người nghèo đói cơ hàn, những con người bị ngược đãi, bị bỏ rơi. Chính Ngài đã từng nói rằng: “Hỡi những kẻ được cha Ta chúc phúc hãy vào hưởng Nước Trời là gia nghiệp đã dành sẵn cho các ngươi, vì khi ta đói, ta khát, ta trần truồng, bị bỏ rơi, tù đầy, ngược đãi các ngươi đã cho ăn, cho uống và tiếp đón ân cần”. Ngài đã đồng hoá mình với những người khổ đau để con người biết vì Ngài mà biết thương nhau, biết vì Ngài mà phục vụ lẫn nhau, biết vì Ngài mà hy sinh cho nhau, mà đón nhận lẫn nhau trong yêu thương và tha thứ.
Thế nhưng, giữa cuộc đời hôm nay vẫn còn đó những con người bị loại trừ, vẫn còn đó những ánh mắt thiếu cảm thông, những cái nhìn tẩy chay của con người dành cho nhau. Xem ra Thiên Chúa vẫn bị khước từ. Ai cũng biết rằng Thiên Chúa là Emanuel đang ở cùng chúng ta, nhưng chúng ta vẫn cố tình loại trừ lẫn nhau, vẫn đang tìm cách xua đuổi anh em của mình một cách bất khoan dung. Ai cũng biết rằng xúc phạm đến nhau là xúc phạm đến Chúa, thế nhưng, có mấy ai đã vì Chúa mà nhịn nhục lẫn nhau, đã vì Chúa mà sống khoan dung, tha thứ cho nhau. Đôi khi, chính cách đối xử bất khoan dung đó đã khiến anh em không có cơ hội để sửa đổi và làm lại cuộc đời.
Người ta kể rằng: Trong một xóm đạo nhỏ ở một miền quê hẻo lánh, có một thanh niên nổi tiếng ăn chơi, trộm cắp được người đời đặt cho biệt hiệu: “Hiền bụi đời”. Với thành tích, trộm cắp và gây mất trật tự thôn xóm, anh đã bị tập trung cải tạo. Thời gian anh cải tạo là thời gian xóm làng bình an. Người ta cảm thấy hạnh phúc khi không có anh. Cho đến khi nghe tin Hiền bụi đời sắp trở về xóm nhỏ này sau thời gian dài trong trại giam. Người dân xem ra chẳng vui mừng mà còn lo sợ. Lâu lâu người ta lại nghe tiếng búa, tiếng đục cửa của một nhà nào đó đang sửa lại cửa nẻo để chống trộm. Hôm ấy, hắn trở với khuân mặt rạng rỡ của kẻ chuẩn bị bước vào một cuộc sống mới để cải tà quy chính, một cuộc sống lương thiện như bao người khác. Đối với hắn, dường như mọi thứ đều thay đổi trong mắt hắn. Vui vui, hắn tiến về phía Dì Năm hủ tiếu, nơi đang diễn ra câu chuyện sôi nổi của những người dân trong xóm. Nhưng rồi nụ cười của hắn chưa kịp nở đã vội tắt ngấm. Mọi người im bặt khi hắn tới. Những ánh mắt dè chừng, những nụ cười ngượng gạo, cáo lui. Không lâu sau đó, hắn lại bị bắt vì một vụ cướp của. Trong khẩu cung, hắn khai: “Vì muốn trả thù đời”.
Vâng, Hiền bụi đời đã tiếp tục cuộc sống trộm cắp vì sự loại trừ của đồng loại. Anh không được đón nhận trong cuộc đoàn. Anh bị khước từ bởi lầm lỗi quá khứ. Chính thái độ bất khoan dung của thôn xóm đã tạo nên một Hiền bụi đời để trả thù đời.
Hôm nay ngày lễ giáng sinh, là dịp để chúng ta nhắc lại với nhau, Con Thiên Chúa đã làm người và ở giữa chúng ta. Ngài đang cần chúng ta yêu thương. Ngài đang cần chúng ta giúp đỡ. Ngài đang cần chúng ta đón nhân. Ngài đang cần chúng ta dành cho Ngài cái nôi đón nhận trong sâu thẳm lòng mình. Ngài đang cần chúng ta dành cho Ngài những cọng rơm hy sinh của nhịn nhục, của bác ái vị tha làm ấm áp lòng Ngài. Ngài đang cần chúng ta dành cho Ngài hơi ấm của tình thương chia sẻ với tấm lòng quảng đại, nhiệt thành như các mục đồng năm xưa.
Nguyện xin Đấng Emanuel chúc lành cho những nghĩa cử yêu thương cùa chúng ta. Nguyện xin Ngài đón nhận những hy sinh nhịn nhục và bác ái vị tha của chúng ta dành cho nhau như là dành cho chính Ngài. Và cầu chúc cho mỗi người chúng ta biết đón nhận nhau như là đón nhận Đấng Emmanuel ở cùng chúng ta để nhờ đó mà chúng ta biết trao cho nhau những nghĩa cử ấm áp tình người và chan hoà tình nhân ái bao dung. Amen.[Mục Lục]
(Suy niệm của Camille Gagnon)
Đây là thời gian hoan lạc.
Từ vài tuần lễ nếu không phải là vài tháng chúng ta đã dự tính và tổ chức lễ Giáng Sinh: Chúng ta sẽ đi đến nhà ai, ai sẽ đến nhà chúng ta. Điều này đối với nhiều người là một mối bận tâm lớn, để sắp xếp mọi cuộc gặp gỡ và mọi lời mời. Thậm chí thời tiết cũng ảnh hưởng đến những lo toan của chúng ta: Có bão là các cha mẹ trẻ tuổi sẽ không lên đường được vì sẽ quá nguy hiểm cho trẻ thơ. Rồi những tuần sau, khi nhà sẽ đầy người, niềm vui sẽ lớn lên: “Ôi, tôi rất vui được gặp bạn!” – “Ôi, cuối cùng bạn đã đến rồi!” – “Thật mừng là bạn có thể đến được!”.
Ở đây, trong nhà thờ chúng ta có thể lập lại một lời gì giống như vậy trong suốt mùa Vọng: “Vì Ngài ở với chúng ta! Vì Chúa Giêsu ở với chúng ta”. Lời này đã trở thành khẩu hiệu cho việc chuẩn bị lễ Giáng Sinh. Nhưng tối nay, những lời ngắn gọn này thốt ra như một tiếng kêu của con tim: “Lạy Chúa Giêsu, vì Chúa ở với chúng con, chúng con cũng ở với Chúa. Nơi nhà Chúa, tối nay người ta đi viếng thăm nhau. Chúa đến nơi nhà chúng con và chúng con đi đến nhà Chúa! Con ở đây, vì Chúa cũng ở đây nữa!”.
Tiếp khách.
Thường lệ khi khách đến, người ta tiếp đón, hỏi han một chút. Người ta hỏi thăm có điều gì mới không và khi có một em bé cùng đi người ta quan tâm kỹ hơn, vuốt ve ân cần hơn. Tại sao chúng ta hết thảy không đón tiếp Chúa Giêsu như vậy?
Quả thật, chính với tư cách một hài nhi mà Ngài đến viếng thăm: “Đức Maria hạ sinh một con trai đầu lòng, quấn tã và đặt nằm trong máng cỏ”. Nhưng hài nhi này đến viếng thăm chúng ta với những nét đặc biệt, mang một niềm hy vọng rất đặc biệt, như bài đọc thứ nhất đã nói: Ngài sẽ là “cố vấn tuyệt vời”, Ngài sẽ là “quyền năng của Thiên Chúa”, “Nguồn sự sống đời đời”. Ngài sẽ là “một mầm mống bình an”. Một hài nhi như vậy thật là quí báu. Trong một gia đình, đây là một phúc lành thật sự làm cho mọi người vui mừng.
Không có Ngài, chẳng có gì như vậy được.
Chăm sóc một em bé vài tiếng đồng hồ, thời gian một cuộc viếng thăm ngắn ngủi, không đòi hỏi nhiều lắm. Nhưng khi người ta đến ở lâu, ở mãi, làm cho gia đình tăng số, lúc đó sự việc trở nên nghiêm túc hơn. Mỗi lần một người nào khác đến ở bên cạnh chúng ta, điều này sẽ mang lại bao nhiêu sự thay đổi! Phải thay đổi bao nhiêu thói quen.
Đêm nay, Chúa Giêsu đến ở luôn nơi chúng ta. Ngài tự mời để trở nên thành phần cuộc sống của tôi và Ngài chờ mong nhận được những sự chăm sóc, quan tâm, tình thương. Ngài cũng chờ mong ta để Ngài lớn lên, phát triển. Các bạn thấy không, xúc động khi tiếp đón “bé Giêsu” có ích gì nếu ta không để chỗ cho Ngài lớn lên, phát triển đến nỗi chiếm cả cuộc đời của chúng ta, tới độ Ngài trở thành Chủ của chúng ta như một bài ca cổ xưa đã nói: “Thầy chí thánh của chúng ta vừa mới sinh ra cho chúng ta”. Vì ta phải ý thức: chấp nhận Thiên Chúa đến viếng thăm tức là chúng ta phải dấn thân vào những nẻo đường đầy yêu sách. Ngay đêm nay, điều đó muốn nói rằng đối với người này hay người khác trong chúng ta phải quên đi một cuộc tranh chấp và tăng thêm thiện chí. Phải đi một hay hai bước thêm nữa. Việc Thiên Chúa đến viếng thăm cũng mang lại cho chúng ta một sự ngạc nhiên rất lớn nữa. Quả thật, Ngài không đến một mình, Ngài kéo theo một đám người không mấy danh giá. Một câu hỏi vang lên đặc biệt mạnh trong đem Giáng Sinh này: “Nhưng lạy Ngài có khi nào chúng tôi đã nuôi nấng, đón tiếp, viếng thăm Ngài đâu? Có khi nào chúng tôi đã không làm điều đó?”. Anh chị em đã biết rõ câu trả lời rồi. Khi ta để Chúa Giêsu lớn lên, Ngài thực sự mang gương mặt của những người đàn ông đàn bà của ngày hôm nay, và rất thường là những gương mặt của những người nghèo nhất và xấu số nhất.
Đây là thời hoan lạc.
Nhưng đêm nay, chỉ với một con tim tươi trẻ mà chúng ta mới có thể nhận ra những lần Thiên Chúa đến viếng thăm trong cuộc đời chúng ta và để cho niềm hoan lạc bùng lên. Phải, ta có thể nói: Không có Ngài cuộc đời của chúng ta không thể như vậy được. Vì bao nhiêu niềm vui đã nhận được và cho đi, bao nhiêu tình nhân ái đã trổ hoa trong lòng con người vì Hài Nhi này. Hài Nhi mà người ta để cho lớn lên trong nội tâm mình.
Chính nhờ thế mà chúng ta có thể kêu lên: “Vì Ngài ở với chúng con, nên đây là thời gian hoan lạc!”.[Mục Lục]
Bài giảng Lễ Đêm Giáng Sinh 24.12.2015 tại Giáo xứ Hợp An
- Tối nay, chúng ta cùng nhau cử hành Lễ Đêm mừng Chúa Giáng Sinh tại giáo xứ Hợp An, chúng ta vui mừng hân hoan đón Chúa đến với chúng ta. Chúng ta muốn suy nghĩ sâu xa hơn về ý nghĩa của việc Chúa đến.
Chúa đến đây làm gì? Chúa đến trần gian để đem Niềm Vui, đem Hạnh Phúc của Chúa đến cho chúng ta. Chúa đến trần gian để đem Ơn Tha Tội đến cho loài người đã sa ngã phạm tội từ thời đại này sang thời đại kia. Chúa đến trần gian để mạc khải Tình Yêu, Lòng Thương Xót của Thiên Chúa Cha cho loài người chúng ta. Chúa đến để đem Bình An, để hòa giải loài người lại với Thiên Chúa và con người lại với nhau.
- Bài Phúc Âm theo Thánh Luca (Lc 2, 1-14) cho chúng ta biết việc Chúa sinh ra ở đời là một sự kiện lịch sử, xảy ra thời Hoàng đế Augustô (x. Lc 2,1). Thánh Giuse và Mẹ Maria từ Nazareth thuộc vùng Galilê đến Bêlem miền Giuđê, quê hương của Vua Đavít, tổ tiên ngài (x. Lc 2,4). Hai ông bà, vì không có tiền thuê quán trọ, đã sinh Chúa Giêsu trong hang bò lừa (x. Lc 2,7). Đó là một sự kiện lịch sử, nhưng cũng là một Biến Cố Siêu Việt, Siêu Lịch Sử. Đấng Sinh Ra là Đấng Thánh, là Đấng Tạo Thành Trời Đất, là Chủ và là Chúa của Lịch Sử. Chính vì thế mà có sứ thần Chúa hiện ra cho các mục đồng đang chăn chiên: “Anh em đừng sợ! Này tôi loan báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng sẽ là niềm vui cho toàn dân.” (Lc 2,10)
- Theo Thánh Phaolô trong thư gởi Titô (Tt 2,11-14), Đấng Thánh sinh ra cho nhân loại chúng ta, Người Con giáng trần vì chúng ta, là Ân Sủng của Thiên Chúa đã được biểu lộ, đem ơn cứu độ đến cho mọi người (x. Tt 2,11). Ân Sủng đó là chính Chúa, dạy chúng ta phải từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục (x. Tt 2,12). Người đã tự hiến để cứu chuộc chúng ta cho thoát khỏi mọi điều bất chính (x. Tt 2,14).
- Chúng ta hát lên mừng Chúa một bài ca mới; hát lên mừng Chúa, chúc tụng Thánh Danh (x. Tv 96 (95),1-2a). Chúa đã ban cho Dân Chúa chứa chan niềm hoan hỷ, đã tặng thêm nỗi vui mừng (x. Is 9,2a). Họ mừng vui trước Nhan Ngài, như thiên hạ mừng vui trong mùa gặt (x. Is 9,2b). Một trẻ thơ đã chào đời để cứu ta, một Người Con đã được ban tặng cho ta (x. Is 9,5a). Người sẽ làm cho vương quốc được kiên cố vững bền trên nền tảng chính trực công minh (x. Is 9,6b).
- Noel năm nay mọi người chúng ta hãy hướng tới Lòng Thương Xót của Thiên Chúa. Xin Chúa tha thứ mọi tội lỗi cũng như khuyết điểm và chúc phúc cho chúng ta. Chúng ta đã mở cửa Năm Thánh Lòng Thương Xót tại Nhà Thờ Chính Tòa. Giờ đây chúng ta hãy đón nhận Lòng Thương Xót của Thiên Chúa vào trong cuộc sống và đưa ra thực hành. Hãy xót thương những người nghèo khổ, những người cô thế cô thân, những người khuyết tật, những người bị bệnh nan y…[Mục Lục]
(ĐGM. Giuse Nguyễn Năng)
LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA
NƠI MẦU NHIỆM GIÁNG SINH
Đêm nay, chúng ta họp nhau nơi đây để mừng ngày sinh của Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế. Đây là biến cố vĩ đại, như lời thánh Phaolô (Bài đọc 2), đêm nay “ân sủng của Thiên Chúa được biểu lộ”, Con Thiên Chúa sinh ra trong thế giới của chúng ta để “đem ơn cứu độ đến cho mọi người”. Đây là ngày Thiên Chúa biểu lộ lòng thương xót đối với nhân loại đang sống trong khổ đau, tinh thần và thể xác.
- Khi bị lưu đày bên Babylon, dân Do Thái sống trong cảnh khổ đau trên bình diện tinh thần và thể xác, cá nhân cũng như quốc gia. Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót không nỡ để họ mãi mãi chìm ngập trong khổ đau và thất vọng. Qua lời tiên tri Isaia (Bài đọc 1), chính Thiên Chúa lên tiếng loan báo cho họ ngày giải thoát, ngày Thiên Chúa cứu họ khỏi bàn tay hung dữ độc ác của kẻ thù. Ngài sẽ cho một trẻ thơ chào đời để cứu họ. Người con ấy là Đấng quyền năng, là Thủ lãnh hoà bình, sẽ thiết lập nền hoà bình vô tận, trong một vương quốc được xây dựng trên nền tảng chính trực và công minh. Chính niềm hy vọng này đã nâng đỡ dân Do Thái qua những chặng đường lịch sử. Họ luôn trông đợi sẽ có ngày Thiên Chúa biểu lộ lòng xót thương.
Thế giới của chúng ta hôm nay cũng đầy dẫy những khổ đau. Từ bản thân đến gia đình, từ họ hàng đến làng xóm, từ cá nhân đến xã hội, từ quê hương đất nước đến thế giới toàn cầu, cuộc sống tràn ngập khổ đau. Sự dữ lớn nhất là tội lỗi, tội cá nhân, tội tập thể. Rồi nào là hận thù, áp bức, cướp của, chém giết, xung đột, khủng bố, bạo hành, đang diễn ra từng ngày trên thế giới, ngay trong xã hội, trường học và gia đình của chúng ta. Trầm trọng hơn, nhiều quốc gia vẫn chìm trong khói lửa của chiến tranh loạn lạc. Nhiều nơi khác, nguy cơ chiến tranh có thể xảy ra bất cứ lúc nào.
Chúng ta mong đợi một sự giải thoát, khao khát ấm no hạnh phúc. Có lẽ chúng ta chờ đợi một phép mầu xoá tan mọi đau khổ để khai sinh một thế giới mới bình an và hạnh phúc. Thiên Chúa có thương xót nhân loại nữa chăng? Lòng thương xót của Chúa có đủ quyền năng để giải cứu loài người không?
Với niềm tin Kitô hữu, chúng ta xác tín rằng Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót, Ngài luôn yêu thương nhân loại, yêu thương từng người chúng ta. Ngài là Chúa của lịch sử, là Đấng quyền năng vô biên. Ngài sẽ cứu thế giới như đã cứu dân Do Thái.
- Tuy nhiên, lòng thương xót của Thiên Chúa không chỉ giới hạn nơi việc giải thoát dân Do Thái. Lời hứa của Thiên Chúa nhắm đến những thực tại lớn lao và sâu xa hơn. Trong đêm Giáng sinh này, lòng thương xót của Thiên Chúa được biểu lộ qua việc ban tặng cho nhân loại người Con Một yêu dấu. “Chúa Giêsu Kitô chính là dung mạo lòng thương xót của Chúa Cha… Vào thời viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con Một của Ngài xuống thế gian, sinh bởi Đức Nữ Đồng Trinh Maria, để biểu lộ tình yêu của Ngài cho chúng ta một cách quyết liệt… Chúa Giêsu thành Nazareth, qua lời nói, hành động và toàn bộ con người của Ngài, đã thể hiện lòng thương xót của Thiên Chúa” (Dung mạo lòng thương xót, số 1). Con Thiên Chúa đã làm người sống giữa nhân loại. Nhờ mầu nhiệm Nhập thể, loài người được giao hoà với Thiên Chúa, và mọi người trong thế giới được giao hoà với nhau. Đó là sự giải cứu sâu xa và lớn lao đem lại bình an và hạnh phúc đích thực cho nhân loại.
- Thiên Chúa thương xót chúng ta bằng cách ban tặng Chúa Giêsu để Ngài giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi và dục vọng. Tội lỗi và dục vọng, phải, mọi đau khổ đều bắt nguồn từ đó. Con người gây ra đau khổ cho nhau là vì trước hết con người đã quay lưng lại với Thiên Chúa và trở thành kẻ phản loạn phá đổ công trình tạo dựng của Ngài. Một khi loại trừ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống, thì đồng thời con người cũng loại trừ nhau. Một tâm hồn bất an và bị xâu xé bởi đủ loại dục vọng làm sao có thể sống hài hòa với người khác được?
Do lòng thương xót muốn cứu độ nhân loại khỏi tội lỗi và dục vọng là căn nguyên của mọi đau khổ, nên đêm nay, Con Thiên Chúa từ trời cao đã đi vào trần gian đi tìm chúng ta. Nhân loại tựa như đoàn chiên lầm đường lạc lối, hôm nay được Chúa Giêsu xuống thế tìm kiếm đưa về Nhà Cha. Vị Mục tử giàu lòng thương xót ôm chúng ta vào lòng và đưa về sống trong tình yêu của Thiên Chúa. Hoặc có thể dùng một hình ảnh khác, nhân loại tựa như nạn nhân bị cướp đánh nhừ tử và bỏ dở sống dở chết bên đường, hôm nay đã được Chúa Giêsu như người Samari nhân hậu, xuống lừa, xoa dầu, băng bó vết thương và chữa lành. Lòng thương xót của Thiên Chúa được biểu lộ như thế đó.
Vì thế điều đầu tiên phải làm để được cứu độ là nhìn nhận mình có tội để được Thiên Chúa thương xót thứ tha. Nếu muốn sống khoẻ mạnh, điều kiện đầu tiên là loại trừ bệnh tật. Mang mầm bệnh trong người thì làm sao khoẻ mạnh? Mà muốn khỏi bệnh, phải nhận mình có bệnh. Không nhận mình có bệnh thì làm sao được chữa khỏi bệnh? Cũng thế, hãy nhìn nhận mình cần được Chúa thương xót.
- Một khi đã được Thiên Chúa thương xót và thứ tha, chúng ta hãy trở thành chứng nhân và sứ giả của lòng thương xót. Chúa Giêsu đã đi vào đời và gieo mầm tin yêu khắp nơi, để đến phiên mình, mỗi người cũng biết thực thi lòng thương xót, để nhờ đó góp phần kiến tạo một thế giới mới, một xã hội mới, được xây dựng trên công lý và tình thương.
Nếu không có lòng bao dung nhân ái và tha thứ, bạo lực sẽ sinh ra bạo lực, hận thù sinh ra hận thù, tựa như vòng xoáy luẩn quẩn ngày càng lan rộng và không bao giờ chấm dứt. Nếu như vậy thì cuộc đời không thể sống nổi. Chỉ có tình yêu mới cứu được thế giới. Chỉ có tình yêu mới đem lại bình an và hạnh phúc đích thực. Đừng gieo rắc hận thù ghen ghét, đừng sử dụng bạo lực nữa. Gia đình hãy thôi cảnh bạo hành. Đừng dạy cho giới trẻ lòng hận thù báo oán, nhưng hãy thông truyền cho họ tình thương và lòng khoan dung tha thứ. Giới trẻ và học sinh đừng đánh đập chém giết nhau. Thay cho hận thù và bạo lực, hãy đối xử với nhau theo lối sống của nền văn minh tình thương.
Cùng với lòng bao dung tha thứ, trái tim chúng ta cũng mở ra để thương xót những anh chị em nghèo khổ, đói khát, bệnh tật, những người sống trong hoàn cảnh đau thương, những người bị bỏ rơi, bị loại trừ. Trong đêm Giáng sinh, thánh Giuse và Đức Mẹ không tìm được chỗ trong quán trọ, đã bị xua đuổi và loại trừ, nên Chúa Giêsu phải sinh ra trong hang lừa bò. Ngày nay biết bao người nghèo khổ cũng bị bỏ rơi và quên lãng, bị xua đuổi và loại trừ. Là Kitô hữu, chúng ta không được thờ ơ vô cảm. Trái tim của chúng ta phải nên giống trái tim của Chúa, biết chạnh lòng thương xót, biết động lòng trắc ẩn. Khi chúng ta cảm thông giúp đỡ họ là chúng ta làm cho Chúa; ngược lại, khi lòng chúng ta khép lại, là chúng ta từ chối Chúa. Hãy nhớ rằng “vào lúc cuối đời, chúng ta sẽ bị xét xử về tình yêu” (Dung mạo lòng thương xót, số 15).
- Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI nói: nhân loại được cứu độ không phải là nhờ “các lời hứa hẹn to tát”, nhưng là nhờ “ánh sáng thầm lặng của sự thật, của lòng nhân lành của Thiên Chúa”. Những chủ thuyết, những nhà độc tài, những chính sách chuyên chế, chỉ để lại cho thế giới này một sự“trống rỗng vĩ đại” và một “sự tàn phá khủng khiếp”. Chúa Giêsu đã không làm một “cuộc cách mạng đẫm máu”, “không thay đổi thế giới bằng vũ lực”, nhưng Chúa đã đến “thắp lên bao nhiêu ánh sáng để tạo thành một đại lộ ánh sáng qua suốt bao nhiêu thiên niên kỷ” (Bài giảng tại giáo xứ Maximilianô Kolbê, Roma, ngày 13-12-2010).
Chỉ có tình yêu mới thay đổi được thế giới. Hãy làm cho lòng thương xót thấm vào mọi sinh hoạt hằng ngày, hãy đổi mới xã hội bằng cách đổi mới lối sống của chúng ta. Đó chính là Phúc-Âm-hoá đời sống xã hội. “Sự khả tín của Giáo hội được biểu lộ qua cách thức Giáo hội thực thi lòng thương xót và trắc ẩn” (Dung mạo lòng thương xót, số 10). Nếu biết sống lòng thương xót, chúng ta sẽ chiếu toả vẻ đẹp của Phúc Âm và làm cho lời rao giảng của Giáo hội có sức thuyết phục.
Trong đêm Giáng sinh, các thiên thần hát mừng: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người được Thiên Chúa yêu thương”. Lời ca của thiên thần trên trời đã trở thành lời ca của con người ở dưới đất. Đó là lời ca được hát nhiều nhất trên thế giới trong đêm nay, đêm bình an. Xin “Thủ lãnh hòa bình” ban bình an cho thế giới và quê hương Việt Nam; xin cho xã hội, từng gia đình và từng người được sống bình an hạnh phúc trong tình yêu thương. Nguyện xin Chúa Giêsu Hài Đồng là hiện thân của lòng thương xót của Thiên Chúa ban cho chúng ta một trái tim mới.
Chúc anh chị em mừng lễ Giáng Sinh đầy tràn niềm vui, ân sủng và bình an của Chúa Giêsu.[Mục Lục]
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Có một vị hoàng thái tử vào rừng săn bắn gặp một cô gái hái củi trong rừng. Không hiểu Trời xui đất khiến làm sao mà họ yêu nhau tha thiết ngay từ buổi gặp gỡ đầu tiên.
Hoàng tử quay về triều như kẻ mất hồn, ngày đêm tương tư cô gái nghèo mà anh đã đem lòng thương mến. Thế rồi, do lòng yêu thương thúc đẩy, anh khẩn khoản xin vua cha cưới nàng cho bằng được.
Để tìm hiểu xem cô gái có thực sự yêu thương con trai mình bằng tình yêu chân thực, hay chỉ yêu chàng vì gia tài, địa vị, quyền thế của chàng, vua cha dạy cho hoàng tử cải trang làm nông dân để thử lòng cô gái.
Thế là hoàng tử hoá thành người nông dân, đến cắm lều gần nhà cô gái, ngày ngày vác cuốc ra đồng làm lụng, làn da cháy nắng, đôi tay chai sần. Anh lân la đến làm quen với cô gái trong hình hài một nông dân.
Mặc dù cô gái vẫn thầm yêu và khát mong được kết hôn với vị hoàng tử mà cô đã gặp trong rừng, nhưng trớ trêu thay, cô ta không nhận ra vị hoàng tử nầy trong dáng dấp người nông dân nghèo khổ. Cô đã đối xử với anh rất lạnh nhạt và cuối cùng đã xua đuổi anh đi, trong khi lòng cô vẫn thổn thức nhớ thương chàng hoàng tử hào hoa mà cô đã gặp trong rừng!
Tiếc thay, cô đã đánh mất cơ hội vô cùng quý báu: mất vinh dự trở thành công nương, thành hoàng hậu tương lại.
* * *
Như vị hoàng tử hoá thân thành nông dân đến cắm lều ở bên cạnh nhà cô gái, Ngôi Hai Thiên Chúa đã từ bỏ ngai trời, hoá thân thành người phàm và đến ở giữa chúng ta.
Trong khi chúng ta vẫn yêu mến và tôn thờ Thiên Chúa uy linh trên cõi trời cao, chúng ta lại tỏ ra thờ ơ hờ hững với những chi thể của Ngài, với hiện thân của Ngài đang sống quanh ta.
* * *
Thánh Phao-lô nhấn mạnh:
“Nào anh em chẳng biết rằng thân xác anh em là phần thân thể của Đức Kitô sao?” (I Cr 6,15)
“Anh em là thân thể Đức Kitô, và mỗi người là một bộ phận” (I Cr 12, 27)
“Thật thế, tất cả chúng ta, dầu là Do-thái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể.” (I Cor 12, 13)
* * *
Chúa Giêsu cũng khẳng định rằng tha nhân là hiện thân của Ngài, vì thế ai khước từ bạc đãi người khác là bạc đãi Ngài, xúc phạm đến người khác là xúc phạm đến Ngài.
Khi Chúa Giêsu phục sinh khiển trách Sao-lô: “tại sao ngươi bắt bớ Ta”(Rm 9,4) đang khi Sao-lô chỉ đụng đến các tín hữu, là Ngài tự đồng hoá mình với họ. Ngài dạy: “Những gì các ngươi đã làm cho các anh em bé mọn của Ta đây là các ngươi đã làm cho chính Ta.” (Mt 25, 40)
* * *
Thánh Phanxicô Assisi nhận ra người phong cùi là một phần chi thể đang bị ung nhọt của Chúa nên ngài đã ôm hôn người phong ấy với tình yêu thắm thiết.
Mẹ Tê-rê-xa thành Calcutta cũng đã nhận ra những người bệnh tật, hấp hối là những phần chi thể bị tổn thương của Chúa Giêsu nên Mẹ đã dành phần lớn đời mình yêu thương chăm sóc họ.
* * *
Hôm nay, Thiên Chúa vẫn tiếp tục đóng vai người nông dân, người cùng khổ, người láng giềng, người bạn đồng nghiệp và cả những người nhà, để sống với chúng ta. Thế nhưng chúng ta rất khó nhận ra đó là hiện thân của Thiên Chúa nên thường đối xử tệ bạc với tha nhân. Thế là bi kịch cô gái nghèo hết lòng yêu thương chàng hoàng tử hào hoa nhưng lại phụ bạc anh ta dưới lốt nông dân nghèo khổ vẫn còn đang tiếp diễn từng ngày, từng giờ từng phút. Thế là “Người đã đến nhà của Người mà người nhà đã không tiếp nhận Người.” (Gioan 1, 11)
* * *
Thật vô cùng đáng tiếc cho cô gái trong câu chuyện trên vì cô đã đánh mất cơ hội ngàn vàng: cơ hội trở thành công nương chốn cung đình, cơ hội được hạnh phúc trăm năm bên hoàng tử giàu sang phú quý!
Và cũng vô cùng đáng tiếc cho chúng ta khi chúng ta tiếp tục lặp lại bi kịch ấy trong cuộc đời mình.[Mục Lục]
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)
“Khi hai người đang ở đó thì bà Maria đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa. Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đạt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong quán trọ”. Sự kiện đơn sơ như thế mà tác giả Lu-ca lại cất công ghi chép rất chi tiết niên đại như một biến cố có một không hai trong lịch sử nhân loại. Cộng đoàn Kitô hữu thời sơ khai đã sớm nhận ra điều này: hài nhi mới sinh ra tại Bê-lem trong đơn nghèo lại đang làm đảo lộn cả một lịch sử bi tráng của toàn nhân loại. Sự kiện mang tính cách mạng này lại không phải là một chiến thắng vẻ vang, một cuộc lật đổ ngoạn mục, mà nhiều khi chỉ mang lại lo âu và sợ hãi, cũng không phải là hoàn tất một công trình hoành tráng vĩ đại đòi nhiều đóng góp khó nhọc và lao công. Một ‘Trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ’ lại là một ‘tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân’. Việc hạ sinh này tỏ lộ ‘vinh quang Thiên Chúa trên trời’, đồng thời cũng mang lại ‘bình an cho loài người Chúa thương dưới thế’. Có thể thế được chăng? Tin Mừng vĩ đại lại có thể đơn sơ đến như thế sao?
Thế đấy, cái đêm lễ hội phức tạp và công phu nhất trong năm (chỉ cần nhìn vào cách người ta trang hoàng đường phố cửa tiệm, dọn dẹp nhà cửa, trang trí nhà thờ, mua sắm quà cáp, nấu dọn yến tiệc cho ngày đại lễ) lại có một ý nghĩa, một nội dung quá ư giản dị và thuần khiết! Và để có thể khám phá ra sự đơn thuần này cần phải có được một đêm tĩnh mịch, đêm thầm lặng, đêm sâu lắng của cõi lòng (Silent Night). Vinh quang Thiên Chúa (Gloria Dei) không tỏ hiện trong hào quang sáng chói, không tiền hô hậu ủng trong tiếng nhạc tiếng sấm vang rền, không phô trương rầm rộ với binh hùng tướng mạnh. Vinh quang đó âm thầm xuất hiện giữa đêm đông tĩnh mịch, trong hình hài một trẻ thơ yếu ớt sinh ra trong chuồng chiên bò hôi hám… Điều đó sẽ là hoàn toàn hợp lý khi nào người ta nếm cảm được cái thứ vinh quang của tình yêu thương, của lòng nhân ái; âm thầm và thinh lặng như người cha ngỗi bên giường bệnh của đứa con thoi thóp thở trong góc phòng của một bệnh viện vắng lạnh, hoặc bà vợ đứng sau chiếc xe lăn của người chồng tật nguyền trong xó nhà quạnh hưu… Lúc đó sự thinh lặng, nghèo nàn, tăm tối…, và chỉ có như thế, mới nói lên được tất cả, nói cách hùng hồn và diễn đạt đầy đủ nội dung sâu sắc nhất của tình yêu thương vĩ đại.
Và một khi loài người dưới thế, trong thinh lặng và sâu lắng. nhận ra rằng mình được Thiên Chúa yêu mến xót thương, được ‘đầy ân sủng và Đức Chúa ở cùng’ (Lc 1:28), họ sẽ biết đón nhận biến cố này với tâm hồn an bình, với tâm tình mừng vui diễn tả qua lời ca ngợi tri ân. Đặc biệt Kitô hữu chúng ta, duy nhất giữa muôn người được nhận biết mình là phần tử của ‘loài người Chúa thương’, một loài người không chỉ gồm toàn những kẻ lương thiện tốt lành, mà bao gồm cả các tội nhân bất hảo. Qua kinh nghiệm bản thân, các Kitô hữu hiểu rõ mình thuộc về thứ loài người này trong cả diện tích cực lẫn tiêu cực của nó. Và khi cử hành sự kiện Hài Nhi giáng sinh tại Bê-lem, họ nhận mình chính là người đầu tiên tiếp lấy lòng xót thương thần linh. Tâm hồn họ lúc đó được tràn ngập thứ bình an độc nhất vô nhị, như chính Đức Giêsu sẽ khảng định sau này: “Thầy ban bình an của Thầy cho anh em… thứ bình an mà thế gian không thể ban tặng” (Ga 14:27)… Đúng là “bình an dưới thế cho loài người Chúa thương”.
Maria là người nữ đã chào đón ‘hài nhi sơ sinh bọc tã nằm trong máng cỏ’ trong thinh lặng và sâu lắng như thế. Sinh nở luôn kéo theo không biết bao nhiêu vấn đề thể lý, tinh thần, vật chất và giao tế… dễ làm xáo trộn bất cứ ai, nhất là các sản phụ đặc biệt trong hoàn cảnh xa nhà, giữa muôn vàn thiếu thốn và bị xua đuổi… Tác giả Lu-ca đã đề cao thái độ lạ lùng của người mẹ rất đặc biệt này: ‘Còn Maria thì hằng ghi nhờ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng’. Maria đúng là Kitô hữu tiên khởi, tuyệt vời nhất ngay từ giờ phút đầu tiên khi ‘vinh quang Thiên Chúa’ xuất hiện nơi dương thế.
Là một Kitô hữu, hơn nữa là linh mục – tu sĩ, tôi không thể cử hành biến cố Hài Nhi giáng trần cách nào khác. Dầu có bận rộn tới mấy đi nữa (chưa bằng một phần nhỏ của Maria đâu!), tôi vẫn phải tự nhủ: để khám phá ra và ca tụng ‘Vinh quang Chúa’, và nhận biết mình là ‘loài người Chúa thương’, tôi tuyêt đối cần phải giữ cho tâm hồn mình được thinh lặng và sâu lắng trong suốt thời gian cử hành lễ Giáng Sinh này.
Lạy Hài Nhi sơ sinh bọc tã nằm trong máng cỏ, con muốn cùng Mẹ Maria thinh lặng chiêm ngắm tình yêu vĩ đại của Thiên Chúa giáng trần. Xin cho con nhận ra tăm tối, giá lạnh và nghèo nàn… tại Bê-lem hôm đó lại chính là tiếng ca ngợi vinh quang tình yêu Thiên Chúa cách vang dội nhất. Đặc biệt xin cho con nghe được thấu hiểu lời tuyên bố long trọng về Hài Nhi giáng thế:“Thiên Chúa yêu thương loài người”, trong đó có chính con, và mọi người tội lỗi thấp hèn…, để con và ‘loài người Chúa thương’ được hưởng bình an trọn vẹn và cất lời ca ngợi Chúa không ngừng. Amen.[Mục Lục]
Kính thưa quý ông bà và anh chị em!
Chúng ta đang long trọng và vui sướng đứng trước một cử hành rất lớn của Giáo hội Công giáo hoàn vũ. Đêm nay, trên tòan thế giới, những anh chị em tin Thiên Chúa, lòng trào dâng những cảm xúc dạt dào vô tận, vì được chiêm ngắm Máng cỏ, Hang đá nơi mà Chùa Hài nhi cất tiếng khóc chào đời, bên cạnh Thánh Giuse, Mẹ Maria.
Thật vậy, mỗi dịp Giáng sinh về, chúng ta cầu chúc cho nhau được an lành hạnh phúc. Những cánh thiệp gởi trao nhau, những món quà cho những người già yếu, một chút bánh kẹo tượng trưng cho các trẻ em, qua hình ảnh ông già noel…Tất cả là biểu cảm của tình yêu thương. Quả vậy, Thiên Chúa vì yêu thương nhân loại nên Ngài đã hạ mình, nhập thể trong thân xác một con người, một trăm phần trăm là người như chúng ta, để mời gọi anh chị em biết sống và yêu thương nhau. Chỉ tiếc rằng, thế giới hôm nay đang còn quá nhiều thù hận, ghen ghét và đố kỵ. Chiến tranh nóng, chiến tranh lạnh vẫn xảy ra như cơm bữa. Tình người đang bị xơ cứng và nạn dửng dâng, vô cảm ngày một nhiều. Vừa qua, trên các trang báo Thanh niên, tuổi trẻ đều đồng loạt đưa tin: “Vụ hôi bia ở Biên hòa”, câu chuyện được kể rằng, ngày 4/12/2013 anh tài xế tên là Hồ Kim Hậu lái xe tải chở bia từ Sài gòn ra Huyện Bắc bình Bình thuận thì gặp nạn tại vòng xoay Tam hiệp Biên hòa. Thế là mọi người thay vì giúp tài xế thì họ xông vào hôi của, chở bia đem về nhà mình. Thật đau lòng cho con người Việt Nam ngày hôm nay, và cũng thật vô cùng xấu hổ khi tình yêu thương đồng loại đang ngày một vắng bóng. Chúa Hài nhi mời gọi con người nhìn nhận nhau là anh chị em có cùng Cha chung trên trời. Mừng Chúa Giáng sinh là thông điệp để chúng ta biết bảo vệ sự sống bảo vệ và chăm sóc các trẻ em. Cũng còn đó biết bao nhiêu trẻ thơ không được nhìn nhận và giúp đỡ. Những bào thai vô tội bị bứng ra khỏi lòng mẹ khi chưa kịp cất tiếng khóc chào đời. Những em bé bị chính cha mẹ, người thân, những bảo mẫu hành hạ và giết chết cũng vẫn thường xảy ra. Chúa Hài Nhi Giê-su nhắc nhở mỗi người sứ điệp bảo vệ chân lý chống lại những bất công bạo tàn.
Anh chị em thân mến! năm 2014 sắp đến, năm Phúc âm hóa gia đình, hơn bao giờ hết mẫu gương gia đình Chúa Hài Đồng vẫn là một tấm gương lớn cho chúng ta noi theo và học hỏi. Sống trong một cuộc sống biến động và đổi thay, những bực làm cha mẹ phải biết cho con bú sữa đức tin, dòng sữa ngọt ngào là ân sủng của Thiên Chúa, chứ không chỉ sữa của người mẹ, hay các loại sữa được con người chế biến. Mừng Chúa Giáng sinh anh chị em hãy sống thật tình của lòng yêu thương, sự tha thứ và tinh thần trách nhiệm của những người con cái Chúa. Về trong gia đình, cha mẹ vợ chồng con cái hãy dành cho nhau những lời nói, cử chỉ và tình yêu mà chúng ta đón nhận được từ chính Chúa Hài Đồng. Cầu chúc cho anh chị em tin tưởng và nhận được ơn phúc lành từ Thiên Chúa chúng ta qua con một rất yêu dấu của Ngài là trẻ thơ Giê-su. Anh chị em hãy mời và đón tiếp những anh chị em không cùng tôn giáo đến, để chia sẻ niềm vui Giáng sinh và một năm mới dương lịch sắp đến với mỗi người chúng ta. Amen.[Mục Lục]
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty – Ga. 1,1-18)
Lời tựa sách Tin Mừng thứ tư cho chúng ta một khảng định quan trọng: “Thiên Chúa, chưa bao giờ có ai thấy cả”. Như vậy mọi hiểu biết về Thiên Chúa trước khi Đức Giêsu xuất hiện (Cựu Ước, mọi tôn giáo khác, cũng như các suy luận triết học) đều chỉ là phỏng định; hay nói cách khác là nhân cách hóa, có nghĩa là người ta dựa phần lớn vào tư duy con người, cho dầu có siêu việt đến đâu đi nữa. Nắm bắt và thấu triệt Thiên Chúa cách chính xác chỉ có thể có được qua sự xuất hiện của Lời Thiên Chúa (Verbum Dei) trên trần gian. Vấn đề quan trọng ở đây là xác định được nội dung chính của Lời đó là gì?
Một số khảng định liên quan tới Lời – Verbum được nêu lên: ‘Lời đã có từ lúc khởi đầu… Lời vẫn hướng về Thiên Chúa… Lời là Thiên Chúa… Lời tạo thành vạn vật… Lời là sự sống, là ánh sáng… Lời hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha’. Tất cả các điều này chỉ qui vào một điểm duy nhất: ‘Lời phản ánh, và là hình ảnh trung thực nhất của Chúa Cha’ (xem Dt 1:3; Cl 1:15). Chính Đức Giêsu sau này cũng đã không ngừng lặp đi lặp lại ý tưởng này cho các môn đệ Người, “Không phải là đã có ai thấy được Chúa Cha đâu, nhưng chỉ có Đấng từ nơi Thiên Chúa mà đến, chính Đấng ấy đã thấy Chúa Cha” (Ga 6:46), “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha, sao anh lại nói: xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha?” (Ga 14:9)
Lời – Verbum đó ‘đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta’. Như vậy là từ nay loài người có thể trực tiếp đọc được Lời, nói cách khác có thể trực tiếp thấy và biết Thiên Chúa. Để làm được điều này, cách duy nhất (và tuyệt đối không có bất cứ cách nào khác!) là chịu khó đọc Lời, là chiêm ngắm Lời – Giêsu từ lúc còn mang hình hài một ‘trẻ sơ sinh, bọc tã, nằm trong máng cỏ’ (Lc 2:12), cho tới giờ phút cuối cùng của thập giá khi ‘một người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn Người, tức thì máu cùng nước chảy ra’ (Ga 19:34). Maria là người duy nhất đã có mặt ở cả hai biến cố đó, đã cẩn thận đọc Lời – Giêsu trong tư thế chiêm niệm thâm sâu nhất. Và rồi Mẹ đã hiểu: ‘Thiên Chúa là Đấng cứu độ… hằng thương xót…nâng cao kẻ khiêm nhường… ban cho kẻ khó nghèo đầy dư…’ (Lc 1:47-55). Người môn đệ Gio-an cũng đã theo sát, gần gũi với Thầy Giêsu nên đã có thể đọc được: ‘Điều vẫn có ngay từ lúc khởi đầu, điều chúng tôi đã nghe… đã thấy tận mắt… đã chiêm ngưỡng… tay chúng tôi đã chạm đến, đó là Lời sự sống.’ (1Ga 1:1) và lên tiếng làm chứng: ‘Thiên Chúa là tình yêu’ (1Ga 4:8) ‘Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một…’ (Ga, 3:16); đồng thời quả quyết: “Lời chứng của người ấy xác thực; và người ấy biết mình nói sự thật…” (Ga 19:35).
Chỉ những ai chân thành đọc Lời, chiêm ngắm Hài Nhi Giêsu với tâm hồn sâu lắng nhất mới có cơ hội nhận biết Thiên Chúa cách đích thực; bằng không ý niệm họ có về Người sẽ mãi mãi chỉ là mơ hồ và méo mó. Thực tế cho thấy rất nhiều người vẫn tự cho là mình biết rõ, biết sâu về Thiên Chúa (các tư tế, Biệt Phái và luật sĩ thời Đức Giêsu ngày xưa, hoặc có thể cả các triết – thần học gia lỗi lạc ngày nay), thậm chí còn mở miệng giảng dạy cho người khác về Thiên Chúa thế này thế nọ, nhưng lại không cất công đọc Lời – Giêsu, không dành thời giờ chiêm ngắm, gần gũi và kết hiệp với Lời. Những người như thế thì làm sao có thể vỗ ngực cho là mình hiểu biết về Thiên Chúa? Phải chăng chính họ là các tiên tri giả mà Đức Giêsu đề cập tới (xem Mt 7:15-20). Chẳng trách, Thiên Chúa tình yêu tạo thành thế gian nhưng khi Lời tình yêu đến ‘thế gian lại không nhận biết Người’. Thiên Chúa dựng nên con người giống hình ảnh tình yêu của Người, nhưng khi Lời tình yêu ‘đến nhà mình, thì người nhà lại chẳng chịu đón nhận’. Họ quá quen với suy luận của tri thức rồi, quá quen với ý niệm về một Thiên Chúa cao sang quyền phép rồi, thì làm sao nhận ra ‘Hài Nhi bọc trong tã’ chính là Ngài?
Tôi vẫn được nhắc nhở phải chiêm ngắm mầu nhiệm Giáng Sinh. Thế nhưng tôi trộm nghĩ, còn hơn cả mầu nhiệm Giáng Sinh như một biến cố, tôi cần chiêm ngưỡng Giêsu như một ‘người phàm và đang cư ngụ giữa chúng ta’ với mục đích để biết rõ hơn về Thiên Chúa tình yêu. Giáng Sinh chỉ là khởi điểm để tôi chuyển từ một hiểu biết Thiên Chúa từ suy luận triết thần, qua Thiên Chúa từ nhân của Đức Giêsu Kitô. Giáng Sinh phải bắt đầu nơi tôi một thứ linh đạo chiêm ngắm, đào sâu và kết hiệp với Lời – Giêsu để, như Maria, tôi đặt niềm tin tuyệt đối nơi Thiên Chúa, Đấng cứu độ và giầu lòng xót thương.
Lạy Mẹ Maria, xin dạy con biết thinh lặng quì bên máng cỏ và chiêm ngắm Hài Nhi giáng trần; cũng xin giúp con biết ngước nhìn lên Giêsu chết trên thập giá để nhận ra một Thiên Chúa cứu độ đầy từ tâm. Qua việc lần hạt con muốn được cùng Mẹ ghi nhớ mọi điều trong cuộc đời Giêsu và suy niệm trong lòng, hầu biến trọn niềm tin Kitô hữu thành một khám phá và minh chứng cho mọi người về ‘Thiên Chúa, đấng cứu độ… hằng xót thương’. Kể từ lễ Giáng Sinh này, xin Mẹ đưa tay dẫn dắt con tiến bước trên con đường chiêm niệm và sâu lắng, mà Mẹ đã từng bước đi. Amen.[Mục Lục]
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Máng cỏ luôn làm cho chúng ta rúng động, vì đứng trước máng cỏ là đối diện với một Tình Yêu, một Tình Yêu mở ra bao la bát ngát. Cha đã mở ra bằng cách sai Con xuống thế làm người. Con đã mở ra bằng cách vâng phục ý Cha. Thánh Thần đã mở ra bằng cách tác động nơi lòng Đức Trinh Nữ.
Máng cỏ giúp ta gặp được Tình Yêu của Ba Ngôi, Tình Yêu không lùi bước trước sự khép kín của nhân loại.
Đến Bêlem, chúng ta bắt gặp một Tình Yêu khiêm tốn. Thiên Chúa đã cúi xuống để tặng trao cho con người. Con Thiên Chúa làm người sinh nơi hang súc vật, không một chút hào quang: Ngài sinh ra trong đêm tối; không một chút quyền lực: Ngài là trẻ thơ khóc oe oe. Đấng siêu việt nay chịu giới hạn bởi thời gian. Đấng Tuyệt Đối lại mang một thân xác hữu hạn.
Tình Yêu khiêm tốn không làm chúng ta bị choáng ngợp. không ban bố một cách cha chú, nhưng biết gõ cửa và chờ đợi.
Thiên Chúa giàu sang đã trở nên nghèo để chúng ta được trở nên giàu có (2Cr 8,9).
Hơn hai ngàn năm đã trôi qua kể từ khi Ngôi Lời đặt chân trên trái đất. Ngài đã thắp lên ánh sáng trong bóng đêm. Ngài chính là Ánh Sáng chiếu soi mọi người (Ga 1,9). Tiếc thay nhiều người đã chọn bóng tối, vì bóng tối dễ chịu hơn, đồng lõa hơn (Ga 3,19). Bóng tối ở ngoài tôi và bóng tối ở trong tôi.
Ngôi Lời đã đến nhà của Ngài, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận (Ga 1,11).
Đức Giêsu còn phải nhập thể cho đến tận thế.
Truyền giáo là làm cho Ngài được sinh ra ở đây, hôm nay, trong dòng văn hoá truyền thống của dân tộc, trong những biến chuyển của đất nước thời mở cửa, trong thế giới đã bước qua năm 2000.
Sống mầu nhiệm Nhập Thể là trở nên một Maria khác, đón nhận Đức Giêsu vào đời mình, cưu mang Ngài, và sinh Ngài cho thế giới.
Cuộc sinh hạ nào cũng bắt trắc và đau đớn. Xin thắp lên một ngọn nến từ Ánh Sáng của Ngôi Lời. Xin gom lại trăm triệu ngọn nến để đẩy lui bóng tối trên mặt đất.
Gợi Ý Chia Sẻ
Ngôi Lời đã làm người và đã sống ở đời. Mầu nhiệm Nhập Thể có làm bạn yêu đời và yêu phận người của bạn hơn không?
Làm sao để Chúa Giêsu được sinh ra trong môi trường bạn đang sống?
Cầu Nguyện
Giữa giá rét của mùa đông, xin cho con gặp Chúa.
Giữa những long đong và bấp bênh của phận người, xin cho con gần Chúa.
Giữa cảnh nghèo khó và trơ trụi, xin cho con thấy Chúa đi với con và hiểu con.
Lạy Chúa Giêsu bé thơ nằm trong máng cỏ, xin cho con cảm được sự bình an của Chúa, ngay giữa những âu lo hàng ngày.
Xin cho con đón lấy cuộc đời con với bao điều không như ý.
Và cuối cùng, xin cho con dám sống như Chúa vì Chúa đã dám sống như con.[Mục Lục]
Nhìn vào hang đá Bêlem, quả thực chúng ta thấy được nhiều điều bất ngờ.
Đúng thế, Hài nhi Giêsu là Thiên Chúa thánh thiện tuyệt vời thế mà lại sinh ra tại chuồng bò, là một nơi vừa bẩn thỉu lại vừa hôi hám. Là Đấng tạo hoá quyền năng thế mà giờ đây lại nằm giữa đám chiên bò. Là bánh bởi trời thế mà giờ đây lại ngủ yên trên máng cỏ. Ngày xưa, người Do Thái đã thờ lạy con bò vàng và người Ai Cập thì thờ lạy con lừa. Loài người đã quỳ gối trước những con vật và coi những con vật ấy như là thần minh, như là Thiên Chúa, thì giờ đây để sửa lại lỗi phạm ấy, bò và lừa đã có mặt tại hang đá, phả hơi ấm cho Hài nhi Giêsu. Phúc Âm đã ghi lại, vì không tìm được chỗ nơi hàng quán, cho nên Ngài đã sinh ra nơi chuồng bò. Hàng quán là nơi gặp gỡ của mọi hạng người, là nơi trao đổi mọi lập trường, mọi quan điểm, là nơi ăn nhậu và du hí. Trong khi đó chuồng bò chỉ là nơi dành cho những kẻ nghèo túng và thấp kém. Nếu như Ngài đã sinh ra trong lâu đài cung điện thì có lẽ người ta đã đón nhận Ngài. Thế nhưng Ngài đã tỏ mình ra ở chính nơi mà chúng ta không hề ngờ tới.
Hơn thế nữa, Hài nhi Giêsu, Đấng đã cho mặt trời toả chiếu trong vũ trụ, thế mà giờ đây lại nhờ tới hơi thở của bò lừa để được sưởi ấm. Đấng đã tô điểm cho những cánh hoa màu sắc rực rỡ, thế mà giờ đây lại trơ trụi giữa đêm đông giá lạnh. Đấng đã dựng nên cả bầu trời trăng sao, thế mà giờ đây đôi tay bé bỏng đang run lên vì gió rét. Là Ngôi Lời của Thiên Chúa, thế mà giờ đây lại thinh lặng và câm nín. Ngài quả thực cô đơn và nghèo túng. Thế nhưng Ngài đã tỏ mình ra ở chính nơi mà chúng ta không hề ngờ tới.
Với vóc dàng của một hài nhi bé nhỏ, Đấng tạo hoá đã đến thăm những tạo vật, nhưng Ngài lại không được nhận biết. Ngài đã đến thăm những người thân của Ngài, nhưng Ngài đã không được họ đón nhận. Và cho đến ngày hôm nay, Ngài vẫn còn là một kẻ lạ mặt ngay giữa căn nhà, ngay giữa gia đình của Ngài. Và như thế Thiên Chúa đã tỏ mình ra ở chính nơi mà chúng ta không hề ngờ tới.
Và sau cùng nếu để ý, chúng ta sẽ thấy Chúa Giêsu sinh ra nơi chuồng bò và chết đi trên thập giá. Hang đá và thập giá chính là hai đỉnh cao của cuộc đời Chúa Giêsu. Ngài đã chấp nhận hang đá, vì đã không tìm thấy chỗ nơi hàng quán. Ngài đã chấp nhận thập giá bởi vì con người không muốn Ngài làm vua cai trị. Ngay từ lúc khởi đầu Ngài đã nhìn thấy lúc kết thúc. Hang đá không phải là của Ngài và mộ đá cũng không phải là của Ngài. Nơi hang đá Ngài nằm giữa bò lừa, còn trên thập giá, Ngài nằm giữa hai tên trộm cướp. Thế nhưng cũng chính tại hai nơi bất ngờ này mà Thiên Chúa đã tỏ mình ra cho chúng ta.
Trong những hoàn cảnh bất ngờ như thế, thì làm sao chúng ta có thể nhận biết Ngài. Tôi xin thưa, muốn nhận biết Ngài trong những hoàn cảnh không ngờ tới, thì chúng ta cần phải khiêm nhường. Khiêm nhường như Mẹ Maria và Thánh Giuse, khiêm nhường như những mục đồng, bởi vì chỉ có cách quỳ gối và thờ lạy chúng ta mới nhận ra Chúa, nơi hài nhi bé nhỏ trong hang đá Bêlem.[Mục Lục]
(Suy niệm của ĐTGM. Ngô quang Kiệt)
Đêm nay, tại các nhà thờ trên khắp thế giới vang lên lời ca của các thiên thần trong đêm Giáng Sinh năm xưa:
“Vinh danh Thiên Chúa trên trời,
Bình an dưới thế cho người Chúa thương”
Lời hát của các thiên thần chính là sứ điệp của Chúa từ trời cao gửi xuống. Lời hát này nối kết đất với trời. Lời hát này ràng buộc Thiên Chúa với con người.
Tại sao “Vinh danh Thiên Chúa trên trời” phải đi liền với “Bình an dưới thế cho người Chúa thương”? Thưa vì Thiên Chúa yêu thương con người. Thiên Chúa tự ràng buộc mình với con người.
Vì yêu thương nhân loại, Con Thiên Chúa đã xuống thế làm người. Vì yêu thương nhân loại, Ngài tự nguyện trở nên một trẻ thơ yếu ớt. Vì yêu thương nhân loại, Ngài tự nguyện làm con của loài người, sinh ra bởi một người phụ nữ. Vì yêu thương nhân loại, Ngài đã muốn trở nên một thành viên trong gia đình nhân loại, có một gia đình như những người khác.
Thiên Chúa đã tự nguyện làm một người như chúng ta, Thiên Chúa tự đồng hóa với con người đến nỗi từ nay ai khinh miệt một con người là khinh miệt chính Chúa, ai bạc đãi một con người là bạc đãi chính Chúa, ai hà hiếp một con người là hà hiếp chính Chúa. Ai xúc phạm đến con người là xúc phạm đến Chúa.
Hang đá Bêlem là một lời mời gọi tha thiết và cấp thiết cho tương lai nhân loại. Thiên Chúa hóa thân làm một trẻ sơ sinh để mời gọi ta hãy biết tôn trọng sự sống. Thiên Chúa sinh ra làm một trẻ thơ yếu ớt để mời gọi ta hãy biết yêu thương những người bé nhỏ, yếu hèn. Thiên Chúa sinh ra trong cảnh nghèo nàn để mời gọi ta hãy biết nâng đỡ những người nghèo khổ. Thiên Chúa sinh làm con Đức Mẹ Maria để mời gọi ta hãy biết kính trọng phụ nữ. Thiên Chúa sinh ra trong một gia đình để mời gọi ta hãy biết bảo vệ những truyền thống tốt đẹp đem lại hạnh phúc cho gia đình.
Lời mời gọi này có tính chất quyết định không những cho hạnh phúc chóng qua mà còn cho hạnh phúc vĩnh cửu của con người.
Vì ai tôn trọng con người là tôn trọng chính Chúa. Ai phục vụ con người là phục vụ chính Chúa. Như lời Chúa dạy: mỗi lần ta cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho kẻ rách rưới ăn mặc, viếng kẻ liệt cùng kẻ tù rạc, là ta làm cho chính Chúa (x. Mt 25).
Như thế, lễ Chúa Giáng Sinh là lễ của phẩm giá con người. Chúa xuống trần để nâng cao phẩm giá con người. Chúa làm người để con người được kính trọng. Con người cao quý vì đã được nâng lên làm con Thiên Chúa.
Như thế, lễ Giáng Sinh là lễ của niềm vui. Vui vì con người được Thiên Chúa yêu thương. Vui vì con người được nâng lên địa vị cao trọng. Hôm nay khi đọc Kinh Tin Kính đến câu: “Vì loài người chúng tôi và để cứu rỗi chúng tôi, Người đã từ trời xuống thế”, ta hãy quỳ gối trước tình yêu thương cao cả của Chúa dành cho ta. Quỳ gối để suy niệm sự cao cả của con người vì được Chúa yêu thương.
Vì thế, để mừng lễ Chúa Giáng Sinh cho đúng ý nghĩa, tôn thờ Thiên Chúa vẫn chưa đủ, ta còn phải yêu thương kính trọng con người. Dịp lễ Giáng Sinh, chỉ đến viếng hang đá thôi chưa đủ, ta còn phải đến viếng những nhà tranh vách đất, giúp dựng lại những túp lều xiêu vẹo. Chỉ đến viếng Chúa Giêsu bé thơ thôi chưa đủ. Ta còn phải đến viếng những trẻ em bị bỏ rơi, vực dậy những tuổi thơ bất hạnh. Chỉ cảm thương Thánh Gia trong hang đá nghèo nàn thôi chưa đủ. Ta còn phải cảm thương những anh chị em nghèo khổ, thiếu may mắn ở quanh ta.
Chỉ khi nào tất cả mọi người được yêu thương, ta mới có thể mừng lễ Giáng Sinh thật sự vui tươi. Chỉ khi nào tất cả mọi người bé nhỏ, yếu ớt, nghèo hèn được kính trọng, ta mới có thể hát vang lời ca:
“Vinh danh Thiên Chúa trên trời,
Bình an dưới thế cho người Chúa thương”
Trong tâm tình yêu mến và kính trọng, tôi xin gửi tới tất cả anh chị em lời cầu chúc đầy bình an và ân sủng của Chúa Hài Nhi Giáng Sinh. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Vinh danh Thiên Chúa trên trời. Bình an dưới thế cho người Chúa thương. Khi hát câu này bạn có ý thức mối liên hệ chặt chẽ giữa Thiên Chúa với con người không?
2) Tại sao Chúa Giêsu đòi buộc ta phải yêu mến con người nếu ta thực sự yêu mến Chúa?
3) Lễ Giáng Sinh này, bạn sẽ làm việc cụ thể nào để thực sự mừng đón Chúa đến?[Mục Lục]
ĐÊM ÁNH SÁNG
Đêm Giáng Sinh chìm trong lớp lớp bóng tối dày đặc.
Bóng tối tự nhiên của một đêm mùa đông ảm đạm. Bóng tối cay đắng của đêm dài nô lệ khi đất nước chìm trong ách thống trị ngoại bang. Bóng tối âm thầm nhẫn nhục của những kiếp người nghèo hèn lam lũ. Bóng tối âm u trong túp lều lúc nhúc súc vật hôi tanh. Bóng tối u mê của tội lỗi nhơ nhớp.
Giữa màn đêm dày đặc, Hài nhi Giêsu xuất hiện như một làn ánh sáng rực rỡ.
Đó là ánh sáng tình yêu.
Tình yêu vốn là một ngọn lửa vừa chiếu sáng vừa sưởi ấm. Hài nhi Giêsu là kết tinh tình yêu của Thiên chúa dành cho nhân loại. Tình yêu đã đi đến tận cùng vì đã trao ban cho nhân loại món quà cao quí nhất không gì có thể so sánh được. Trao ban Đức Giêsu là cho tất cả, không còn có thể cho thêm gì nữa. Đức Giêsu là hiện thân của tình yêu Thiên chúa đi tìm con người. Thiên chúa đã hạ mình thẳm sâu để xuống gặp con người. Thiên chúa đã tìm thấy con người trong những khốn cùng tột độ của nó. Thật lạ lùng, Thiên chúa quá yêu thương đến độ kết hợp với sự khốn cùng của nhân loại. Thiên chúa đã cưới lấy bản tính nhân loại. Bóng đêm nhân loại nhận được ánh sáng của Thiên chúa. Bóng đêm khổ đau nhận được ánh sáng yêu thương. Anh sáng Thiên chúa soi sáng kiếp người tăm tối. Ánh sáng Thiên chúa sưởi ấm cho nhân loại lạnh lẽo.
Đó là ánh sáng niềm tin.
Anh sáng Giáng Sinh chiếu toả trên những tâm hồn thiện chí. Đêm nhân gian vẫn còn mê đắm. Nhưng vẫn có những tâm hồn thiện chí tỉnh thức. Đó là những tâm hồn bé nhỏ nghèo hèn. Đó là những cuộc đời khiêm tốn sống âm thầm trong bóng tối. Đó là những người nghèo của Thiên chúa. Đó là thánh Giuse, Đức Maria. Đó là Ba Vua. Đó là các mục đồng. Khiêm nhường nên các ngài sẵn sàng đón nhận thánh ý Thiên chúa. Tỉnh thức nên các ngài nhạy bén đón nhận những dấu chỉ Thiên chúa gửi đến. Thiện chí nên các ngài hăng hái lên đường ngay khi nhận được tín hiệu. Đơn sơ nên các ngài nhận được ánh sáng. Hê rô đê và Giêrusalem chìm trong mê đắm nên ngôi sao đã tắt. Trái lại “vinh quang của Chúa chiếu toả chung quanh các mục đồng”. Và ngôi sao xuất hiện dẫn đường cho Ba Vua. Anh sáng đã bao phủ các ngài. Anh sáng đã dẫn đưa các ngài đến bên máng cỏ. Anh sáng đã khiến các ngài nhìn thấy “một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ” và các ngài đã tin.
Đó là ánh sáng hy vọng.
Hài nhi Giêsu là hạt giống bé bỏng Thiên Chúa gieo vào thế giới. Những tâm hồn thiện chí là mảnh đất phì nhiêu. Những người nghèo của Thiên chúa âm thầm kiên trì chờ đợi. Những tâm hồn thiện chí như Ba Vua ngước mắt lên trời tìm kiếm. Niềm khao khát đã được đáp ứng. Đã đến mùa Thiên chúa gieo hạt. Hạt mầm thần linh gieo vào xác phàm sẽ thần hoá cả nhân loại. Hạt giống Giêsu sẽ triển nở thành cây cao bóng cả cho muôn loài trú ngụ. Mặt trời bé nhỏ Giêsu sẽ trở thành mặt trời chính ngọ soi chiếu đêm tối nhân gian. Anh bình minh Giêsu hứa hẹn một ngày mới chan hoà ánh sáng. Với Hài nhi Giêsu, một thời đại mới khởi đầu: những người bé nhỏ được nâng lên, những người nghèo hèn được kính trọng. Giêsu chính là hạt mầm hy vọng Thiên chúa gieo vào thế giới.
Đó là ánh sáng Tin Mừng.
Được thắp lửa, những tâm hồn thiện chí trở thành những ngọn đuốc, không chỉ sáng lên niềm vui, niềm tin, niềm hy vọng, mà còn chia sẻ ánh sáng với những người chung quanh. “Họ kể lại điều đã được nói với họ về Hài Nhi này”. Tin Mừng được loan đi. Niềm vui lan tới mọi tâm hồn. Ánh sáng bừng lên phá tan đêm tối.
Hài nhi Giêsu như mầm cây vừa nhú. Mầm cây cần bàn tay ân cần chăm bón để vươn thành cổ thụ cành lá xum xuê. Hài nhi Giêsu như ngọn nến đem ánh sáng vào đêm tối. Ngọn nến cần được nhiều bàn tay liên đới chuyền nhau cho ánh sáng lan rộng.
Xin cho con được trái tim của các mục đồng biết mở lòng ra đón nhận ánh sáng và biết đem ánh sáng của Chúa đi khắp nơi, để đêm tối trần gian được ngập tràn ánh sáng huy hoàng của Chúa.[Mục Lục]
(Suy niệm của Lm Trịnh Ngọc Danh – Ga. 1,1-18)
Cách nay hơn hai ngàn năm, vào một đêm đông năm ấy, tại thành Bêlem, miền Giuđê thuộc thành vua Đavít, đã xảy ra một biến cố có một không hai trong lịch sử loài người. Biến cố ấy như thế này:
“Hoàng đế Au-gút-tô ra chiếu chỉ, truyền kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ. Đây là cuộc kiểm tra đầu tiên, được thực hiện thời ông Qui-ri-ni-ô làm tổng trấn xứ Xy-ri-a. Ai nấy đều phải về nguyên quán mà khai tên tuổi”. Trong số những người trở về nguyên quán, có một cặp vợ chồng mới cưới là ông Giuse và bà Maria, từ thành Na-da-rét, miền, Ga-li-lê. “ Khi hai người đang ở đó, thì bà Maria đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa”, vì không tìm được chỗ trong nhà trọ. Hai ông bà đã phải tìm đến một hang nuôi súc vật. Ơ đó, bà Maria đã sinh con đầu lòng, lấy tả bọc con, rồi đặt trong mang cỏ”.
Kể ra thì việc bà Maria sinh con vào trường hợp ấy thì cũng có gì đáng nói so với bao cảnh sinh ra nghèo nàn, thiêu thốn khác!
Nhưng chuyện gì đã xảy ra trong cái tầm thường ấy?
“Trong vùng ấy, có những người chăn chiên sống ngoài đồng và thức đêm canh giữ đàn vật. Và kìa sứ thần Chúa đứng bên họ, và vinh quang của Chúa chiếu tỏa chung quanh khiến họ kinh khiếp hãi hùng. Nhưng sứ thần bảo họ: “Anh em đừng sợ! Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đavít. Người là Đấng Kitô Đức Chúa. Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tả, nằm trong máng cỏ”. Bỗng có muôn vàn thiên binh họp với sứ thần cất tiếng ngơi khen Thiên Chúa rằng: “ Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương”.
Làm sao một đứa trẻ sinh ra trong cảnh nghèo hèn hạ như thế lại có thể là “một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân!” Lại càng không thể tin được rằng hài nhi sinh ra trong cảnh nghèo hèn túng thiếu đủ mọi thứ thế lại có thể là “ một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đavít. Người là Đấng Kitô Đức Chúa”!
Giả sử tin vui ấy cũng được loan báo cho các chức sắc trong tôn giáo hay cho những người có quyền thế, có điạ vị xã hội, chắc gì họ đã mau mắn tin vào lời loan báo của thiên sứ, dù họ vẫn mong đợi Đấng Mêsia sẽ đến như lời các ngôn sứ đã nói! hay khi nghe tin ấy, sợ đụng chạm đến quyền lợi, điạ vị của mình lại tìm cách triệt hạ như Hêrôđê đã sát hại biết bao nhiêu hài nhi! Và giá như chúng ta cũng sinh sống vào thời đó, khi nghe tin báo như thế, có mấy ai tin đó là sự thật!
Nhưng các mục đồng khi nghe thiên sứ báo tin, họ không phân vân đắn đo thiệt hư thế nào. Họ tin và mau mắn lên đường: Sau khi thiên sứ từ biệt, họ bảo nhau: “Nào chúng ta sang Bêlem để xem sự việc đã xảy ra, như Chúa đã tỏ cho ta biết”. Đến nơi, họ đã trông thấy cảnh tượng như thiên sứ đã nói, họ thuật lại chuyện đã nghe và thấy. Ai cũng ngạc nhiên. Còn bà Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng. Rồi các người chăn chiên ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ” (xem Lc 2, 1-20).
Các mục đồng đã thuật lại chuyện đã nghe và thấy. Ai cũng ngạc nhiên, nhưng chưa chắc người ta đã tin Hài Nhi nằm trong máng cỏ là Đấng Cứu Thế! Chỉ có “bà Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng.”
Các mục đồng là ai? Họ không phải là những nhà thông thái, cũng không là những vị chức sắc trong tôn giáo, hay những bậc vị vọng trong xã hội.
Họ là những người thấp kém về địa vị xã hội và cả về học vấn. Họ là những người đơn sơ, chất phát, dễ tin. Họ là những người sống lam lũ. Đời sống của họ gắn chặt với đàn súc vật. Nhưng họ lại được diễm phúc đón nhận tin vui cứu độ, được hân hạnh là những người đầu tiên được diện kiến Đấng Cứu Thế. Họ đã nghe tận tai, thấy tận mắt những gì thiên sứ đã nói. Họ là những nhân chứng của biến cố vĩ đại có một không hai ấy cho người đương thời và cho những thế hệ mai sau.
Cách thức Thiên Chúa mặc khải mầu nhiệm của Ngài khác với những suy luận của con người: Con Thiên Chúa, Đấng Cứu Thế theo suy luận của con người thì phải sinh ra nơi cung điện sang trọng, thì Hài Nhi lại giáng thế trong cảnh túng thiếu, bần cùng; con người khát vọng giàu sang phú quí, thích có địa vị xã hội, muốn được người ta nể phục.. thì Thiên Chúa lại chúc phúc cho những ai có tinh thần khó nghèo, cho những ai hiền lành, sầu khổ, cho những ai trở nên như trẻ thơ…Ý muốn của Thiên Chúa trái nghịch với ý muốn khát vọng của con người. Những gì Thiên Chúa muốn và kêu gọi con người sống và hành động để đạt được hạnh phúc, thì con người lại chối bỏ, không tin hoặc không muốn tin vì ý riêng của mình.
Những mục đồng xưa kia trong đêm đông năm ấy đã hành động như thế nào khi được sứ thần loan báo tin mừng trọng đại?
Trong đêm đông lạnh giá, khi mọi người trong thành đang ngủ say, thì họ là những người đang thức. Chính nhờ sự thức tỉnh của họ mà thiên sứ đã đem tin vui đến với họ.
Trong tâm tình tin tưởng, khiêm nhu, đơn sơ, chất phát, không nghi ngờ, thắc mắc, họ đã mau mắn lên đường để nhìn thấy tin vui; và sau khi đã tận mắt thấy nhìn thấy Hài Nhi nằm trong máng lừa, họ đã tin Hài Nhi ấy là: Đấng Cứu Độ . Họ đã tường thuật lại cho mọi người điều họ đã nghe và thấy, và ra về, họ đã ca tụng tôn vinh Thiên Chúa.
Những hành động của các mục đồng vào đêm đông năm ấy: thức tỉnh, nghe, ra đi, thấy, thuật lại, và ca tụng tôn vinh Thiên Chúa cũng là những đòi hỏi hành động đối vơi hết mọi người Kitô hữu, những chứng nhân Đấng Cứu Thế.
Trong cuộc sống Kitô hữu cũng thế, chỉ khi chúng ta có thức tỉnh tâm hồn, cố đi tìm thánh ý Thiên Chúa nơi chính mình, nơi cuộc sống, chúng ta mới có thể nhận ra tin vui cứu độ đến từ Thiên Chúa.
Thiên Chúa vẫn đến với chúng ta hằng ngày qua Bí tích Thánh Thể, nhưng chúng ta có thức tỉnh tâm hồn để tìm kiếm Ngài, để được Ngài tỏ hiện như đã tỏ hiện cho các mục đồng xưa kia hay không! Ngài vẫn luôn hiện diện cận kề với chúng ta qua cuộc sống, giữa những công việc chúng ta làm, giữa môi trường chúng ta sinh sống; điều quan trọng là chúng ta có thức tỉnh như các mục đồng để mong tìm gặp Ngài hay không.
Khi tham dự Thánh Lễ, chúng ta cũng đón nhận tin vui cứu độ, chúng ta cũng được thấy Đấng Cứu thế, nhưng chúng ta đã hành động như thế nào sau khi được gặp gỡ Đức Kitô?
Các mục đồng đã thuật lại cho người khác những gì họ đã nghe, đã thấy; và ra về, họ vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa.
Họ đã thực thi lời vị chủ tế tuyên bố khi kết thúc thánh lễ: Thánh Lễ đã xong, chúc anh chị em ra đi bình an! Đó cũng là lúc chúng ta ra về để ca tụng tôn vinh Thiên Chúa, đồng thời mang sứ vụ sống làm chứng và loan báo cho mọi người ơn cứu độ như các mục đồng xưa kia đã làm.
Các mục đồng trở về với cuộc đời thường, nhưng từ biến cố họ đã được chứng kiến, họ đã trở thành những chứng nhân của Đức Kitô. Họ đã có một cái nhìn mới làm thay đổi niềm hy vọng của họ trong cuộc sống.
Ước gì qua sứ vụ rao giảng Tin Mừng cứu độ của mỗi người Kitô hữu, lời ca tụng và tôn vinh của các thiên thần vào mùa đông năm ấy sẽ mãi mãi còn vang vọng trong tâm tình chúc tụng và tôn vinh tình thương bao la của Thiên Chúa dành cho loài người:“ Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương”.[Mục Lục]
(Trích trong ‘NÚT VÒNG XOAY’ – Trg. 35)
Đi qua trường Kinh Tế Tài Chính 4 bên cạnh Đại Chủng Viện hôm qua, tình cờ nghe được mẩu đối thoại giữa mấy cô gái. Có tiếng hỏi: “Noel, bồ có đi đâu không?”. Có tiếng đáp: “Không, mình ở nhà”. Và khi tiếng đáp vừa mới dứt đã có tiếng ai đó xen vào: “Noel mà lại ở nhà à? Người ta phải ra đường chứ!”.
Vâng! Noel người ta ra đường thật. Từ Đại Chủng Viện tới đây mặc dù đường đi chỉ có mấy bước, nhưng tôi vẫn bị kẹt xe bởi những con đường lớn đều chật ních những người là người. Dường như cả thành phố đều ở trên đường. Kẻ đi người lại, đông ơi là đông. Vì thế, tiếp cận với Tin Mừng Giáng Sinh đêm nay, tôi bỗng thấy thánh Giuse và Đức Maria cũng đang ở trên đường, đường dong duổi cho cuộc đăng ký hộ khẩu kiểm tra dân số. Những điều tai nghe mắt thấy ấy đã tự nhiên gợi lên hình ảnh Noel là một lễ nhập cuộc.
1) Noel là lễ của sự nhập cuộc.
Nếu trong Mùa Vọng, tín hữu đã sống lại niềm trông mong đợi chờ Chúa của Dân thánh, lấy kinh nghiệm thao thức của họ làm kinh nghiệm thức tỉnh cho mình, và lấy tâm tình dọn dẹp đường lối của họ làm tâm tình chuẩn bị cõi lòng của mình, thì hôm nay không còn úp mở nữa, vị Thiên Chúa được trông chờ ấy chính là Thiên Chúa nhập cuộc.
Khác với lối nhìn của Cựu Ước vốn coi Thiên Chúa là “Đấng khôn tả”, nên muốn tả về Ngài người ta chỉ dám dùng đường lối phủ định nghĩa là thêm chữ “vô cùng” vào sau mỗi phẩm tính muốn dành cho Ngài. Và cũng khác với lối nhìn của ngày xa xưa vốn coi Thiên Chúa là “Đấng đáng sợ”, nếu lơ mơ đến gần Ngài sẽ phải mất mạng như chơi. Đàng này, vị Thiên Chúa được chờ mong lại đến thật sát thật gần. Người hóa thân làm người ở giữa chúng ta.
Người nhập cuộc trong lịch sử chung của toàn thể nhân loại cũng như trong lịch sử riêng của đời Người. Sự nhập cuộc ấy đã được lịch sử cắm mốc thời gian rõ ràng là “thời Hoàng đế Cêsarê Augustô” và được cấp sổ đỏ không thể chối cãi là “thành Bêlem xứ Giuđêa” như Phúc Âm ghi lại. Sự nhập cuộc ấy đã làm nên lý lịch trích ngang của Đấng Cứu Thế. Người có một gia đình, đã được cưu mang chín tháng như bất cứ ai để cuối cùng mở lòng mẹ bước ra chào đời và sống đời như bao người khác.
Thánh Kinh vẫn quen gọi đây là cuộc “Thiên Chúa viếng thăm Dân mình”, nhưng cuộc viếng thăm này lại rất đặc biệt, không chỉ diễn ra trong chốc lát, cũng không thể được lặp lại trong lần khác nữa. Người là vua vinh quang trên trời đã nhận lấy kiếp người giòn mỏng để khởi đầu sự nhập cuộc. Người là Thiên Chúa thật đã nhập thể trở nên con người thật với tiểu sử riêng rõ nét. Người là Thiên Chúa thật đã nhập thế giữa lòng thế giới với lịch sử chung nhân loại rõ ràng. Đó là sự nhập cuộc.
2) Và nhập cuộc là chấp nhận vòng quay nghiệt ngã của cuộc sống.
Trong bài đọc thứ nhất, qua lăng kính của Isaia, Thiên Chúa được xưng tụng là “Chúa hùng dũng”, thế mà Người đã hóa nên con người yếu đuối trong hình hài một thơ nhi bé bỏng.
Dẫu được gọi là “Thủ Lĩnh bình an”, nhưng chính Người khi xuống thế đã nhập cuộc vào những xáo trộn của cuộc đời, để chẳng được an thân sinh ra trong nhà của mình. Hoàng đế Rôma chỉ là thụ tạo, nhưng lại nắm quyền ra lệnh khai sổ nhân danh khiến Thủ Lĩnh đích thực là Người lại phải chịu sinh ra trên đường đăng cai hộ khẩu. Hộ khẩu dẫn tới “hậu khổ”! Người ta dòng dõi vua chúa sinh ra được bọc vải điều nơi lầu vàng gác tía giữa đông đảo kẻ hầu người hạ, còn Người lại tự nguyện sinh ra nghèo khó nơi hang đá trong máng cỏ bò lừa. Người là “Cha vạn thuở”, bản thân Người là căn nguyên vạn vật, thân thế Người là cội nguồn nhân sinh, muôn vật muôn loài đều phải nhờ Người mới có, thế mà hôm nay Người lại chịu sinh ra trong thời gian bởi một người phụ nữ với tiến trình trưởng thành tuần tự bình thường. Người là “Cố Vấn kỳ diệu”, nhưng khi sinh ra làm người hôm nay chẳng thấy Người cố vấn cho ai, mà ngược lại xem ra Người đã “cố mà vấn vào đời mình” những gì là bình thường nhất nếu không muốn nói là hèn mạt nhất của kiếp phận nghèo khổ.
Rõ ràng là Người đã nhập cuộc trong quỹ đạo của một đời người giữa những người đời. Nhập cuộc như thế cũng có nghĩa là ăn đời ở kiếp giữa đời với những hệ quả muôn thuở của cuộc đời. Nếu cuộc đời luôn bằng phẳng có lẽ đã không có kiểu nói diễn tả “bụi trần”, và nếu cuộc đời luôn hạnh phúc có lẽ cũng chẳng phải lắm điều đặt chuyện “đời là bể khổ” làm chi. Chẳng bi quan cũng thấy cuộc đời không luôn ổn định. Thế mà Chúa đã yêu thương đón lấy cuộc đời ấy, để chính khi hóa thân làm người là cùng lúc Người dấn thân vào trong những bấp bênh bồng bềnh bó buộc của cuộc sống.
3) Để cứu độ trần thế và con người.
Nếu nhập cuộc chỉ có nghĩa là hòa vào dòng chảy cuộc đời thì có lẽ chẳng có lễ Noel. Nhưng sở dĩ có lễ Noel là bởi vì Chúa nhập cuộc để cứu độ trần thế và con người.
Người nhập thế để làm gì? Thưa để đem trần thế vào lại “trật tự nguyên thủy” như nét đẹp ban sơ của trần thế ngày sáng tạo mà tội lỗi đã làm hư đi. Nên Noel còn gọi là “Ngày sáng thế mới”. Đêm Noel là đêm đất trời giao duyên trong hôn phối nhiệm mầu của ơn cứu độ.
Người nhập thể để làm gì? Thưa để đem con người về với ơn cứu độ. Người là Emmanuel của một Thiên Chúa không đến rồi đi, không ở rồi về mà là một “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”, một Thiên Chúa đến ăn đời ở kiếp với nhân loại để nâng nhân loại lên ngang tầm với vinh quang của Người. Thảo nào, các thiên thần đã hát: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm”. Và cũng chính vì thế các Giáo phụ Đông phương đã bảo: “Thiên Chúa làm người cho người được làm con Thiên Chúa”. Như vậy, Noel chính là lễ của một sự nhập cuộc tuyệt vời cũng như chữ Noel đến từ danh xưng Emmanuel đã làm nên Thánh lễ đêm nay.
Thiên Chúa nhập cuộc để đem ơn cứu độ. Đó là Tin Mừng trọng đại cho toàn dân, nên sứ điệp của đêm nay là hãy nhập cuộc cùng với Noel.
Nhập cuộc tức thời là hãy mở lòng mình ra mà đón Chúa sinh vào, và nhập cuộc dài hơi là biết sinh Chúa ra bằng một đời sống tín hữu gương mẫu. Đừng để Noel trở thành dịp phô trương đời sống hoặc phô bày đam mê như trong báo Công An tuần qua đăng tải về một Việt kiều tổ chức sinh nhật của mình một cách trụy lạc. Đừng để Noel qua đi mà lòng mình vẫn còn trĩu nặng ước muốn quyền hành hoặc tình cảm ghét ghen. Và nhập cuộc lớn hơn cả chính là biết cùng với Chúa mà cưu mang xây dựng, cảm thông nâng đỡ những anh chị em túng quẫn hoặc đau khổ vốn không thiếu trong đời, cho dẫu chính khi nhập cuộc như thế mình phải hy sinh đi theo quỹ đạo của nhập cuộc.
Noel nhập cuộc là thế, là Tin Mừng sống động, là chan hòa sự sống. Nhưng Noel bao giờ cũng là lễ của niềm vui, của bàn tay nắm lấy bàn tay, của bước chân tiếp nối bước chân dấn thân vào đời phục vụ cho hạnh phúc con người. Niềm vui và hạnh phúc là điều người ta thường cầu chúc trong đêm Noel. Chân thành kính chúc cộng đoàn một Noel tràn đầy niềm vui: thứ niềm vui cứu độ, quên mình, nhập cuộc; và hạnh phúc dẫy đầy: thứ hạnh phúc không phải chờ đến xa xôi mai hậu, nhưng đã bắt đầu đêm nay bằng cách biết tiếp nhận Chúa sinh vào và biết sinh Chúa ra trong quyết tâm nhập cuộc của mình.[Mục Lục]
NGÀY CHÚA GIÁNG SINH
Việc truyền tin Chúa Giêsu nhập thể đã là lạ lùng vì tính cách trái ngược giữa vẻ khiêm hạ bên ngoài với sự cao cả bên trong. Tính cách trái ngược này lại còn lạ lùng và nổi bật hơn nơi việc Người sinh ra.
1) Chúa Giáng Sinh.
Việc Giáng Sinh không xảy ra tại Nagiarét như thường tình, nhưng là tại Bêlem, và không phải do một lời nói chính thức của thiên thần mà bằng mmột biến cố hoàn toàn trần thế, nghĩa là do sắc chỉ của Hoàng Đế Rôma. Như vậy Chúa Giêsu ngay từ ngày mở mắt chào đời đã tỏ ra phục luỵ quyền hành thế trần, như một kẻ yếu thế phải chịu khuất phục kẻ mạnh hơn. Tuy nhiên, đó là công việc của Thiên Chúa, vì người ta sẽ thấy rằng ở đây hành động của con người không ai ngờ lại phục vụ cho kế hoạch của Thiên Chúa. Hoàng đế Augustô ra lệnh kiểm tra nhân số trong đế quốc lớn lao của ông để gom thế giới lại thành một, biết rõ quân số, bảo đảm được sự thu thuế mà ông cần dùng tới với những chương trình vĩ đại của ông. nhưng thực tế, quyền năng thế tục đó bên ngoài hình như kìm kẹp Chúa Giêsu, thì chỉ là dụng cụ của quyền năng Thiên Chúa và qua đó, chương trình Cứu độ được hoàn thành.
Như vậy Chúa Giêsu đã giáng sinh tại Bêlem trong thành cảu Đavít, như Tin Mừng đã nhấn mạnh điều đó. Chính nơi đây, Đavít khi còn là mục đồng, được gọi về hiến Thánh, thì giờ đây, cũng chính ở đây, người con đích thực của Đavít lại sinh ra, Đấng chăn chiên thực sẽ chăn dẫn bầy chiên Thiên Chúa, Ngài là Đấng được ưu tuyển ngay trong bản chất thâm sâu của Ngài và như Đấng Messia, Đấng Thiên tử, Đấng được xức dầu.
Sắc lệnh của Hoàng đế Augustô còn kéo theo một hậu quả khác, đó là việc giáng sinh của Chúa Giêsu được tác thành và lồng vào lịch sử thế giới. Người ta xác định được nơi chốn và thời kỳ xảy ra việc đó. Đây là một biến cố lịch sử đích thực (chứ không phải là chuyện hoang đường hay thần thoại) có chỗ đứng trong không gian và thời gian. Bên cạnh Hoàng đế Augustô, muốn mang lại cho thế giới cơm no áo ấm, với thứ ‘hoà bình của Rôma’, thì Chúa Giêsu đúng là vị Cứu tinh thực sự của vũ hoàn vì đã mang đến ‘bình an của Thiên Chúa’.
Tuy thế, ở Bêlem, không còn chỗ cho Ngài, nên phải sinh trong chuồng bò lưà. Khi nói Chuá không có chỗ trong quán trọ, điều đó có thể hiểu là, thực sự thì những người lang thang, không còn chỗ ở trong quán đó. Nhưng cũng có ý nói, và đúng hơn, quán trọ là nơi những người khách lạ tạm trú, thì không phải là nơi xứng hợp đối với mầu nhiệm Thánh Chúa sinh ra. Vậy Chúa sẽ đến thế trần, không mái nhà, trong cảnh đơn côi và nghèo nàn của chuồng bò lừa. Nôi của Ngài là cái máng khô, đục vào ngay trong tảng đá để cho bò lừa ăn. Tin Mừng đặc biệt nhấn mạnh tới việc Hài nhi được bọc trong khăn. Cho thấy rằng bên cạnh cảnh nghèo hèn còn có nhân tính hoàn toàn, cùng với tất cả sự yếu đuối của tính con người.
Con đầu lòng của Thiên Chúa, hay nói cho gọn là Con Một Thiên Chúa đã đến thế gian này như là một trẻ nhỏ. Khung cảnh thật đơn giản, thanh bạch, nghèo hèn. Sự đơn giản và nghèo hèn này ai sánh được; tuy vậy, lại chẳng có biến cố nào đáng kể hơn, và tất cả mọi phú túc sẽ được trao cho Đấng vừa sinh ra. Trước nhan Chúa, đâu cần vẻ hào nhoáng bên ngoài với tất cả những gì liên hệ tới nó. Mà phải trái lại, cái vẻ bên ngoài càng lui đi thì mới càng thấy rõ vẻ lớn lao bên trong. Tất cả những gì phồn vinh, giả tạo, khoa trương, chỉ có bên ngoài thôi thì đi ngược lại bản tính của Chúa Giêsu ngay từ giờ đầu tiên của ngày Giáng Sinh của Ngài cho tới lúc cuối cùng với cái chế nghéo hèn và trần trụi trên cây thập tự.
2) Loan báo tin Chúa Giáng Sinh.
Các mục đồng là những người đầu tiên nhận được sứ điệp. Israel là dân của các mục tử và Chúa Giêsu chính là Đấng chăn giữ nhân loại mới. Những hạng quyền quý sao hiểu được vẻ cao trọng này, người giàu thì chạy theo của cải, còn người thông thái thì lại hiểu sai về sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Vì thế những người được gọi đầu phải là những người chăn chiên khiêm hạ, nghèo nàn, và là ít học chốn quê mùa.
Nội dung của sứ điệp là một lời loan tin vui tóm trong ba danh hiệu: Đấng Cứu Thế, Đấng xức dầu và là Chúa. Ngài là Đấng Cứu thế, vì Ngài đến giải phóng những người không thể tự giúp mình khỏi cảnh đau thương. Ngài là Đấng xức dầu vì bản tính nhân loại của Ngài đã được thánh hiến bằng dầu Thánh của Thiên Chúa: Ngài trở thành Tư tế, tiên tri và Vua cả. Và Ngài là Chúa vì mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Ngài.
Thật là một dấu chỉ lạ lùng: ‘Các ngươi sẽ thấy một Hài nhi đặt nằm trong máng cỏ’. Điều nhỏ bé sẽ biểu thị vẻ lớn lao, yếu hèn –vẻ quyền năng và nghèo khổ– cảnh giàu sang. Việc Chúa Giêsu sinh ra làm đảo lộn những cái chúng ta đã biết cho tới khi đó, và làm biến đổi các thực tại thần thiêng nhờ các phạm trù khác và ứng dụng chúng vào các quy luật khác.
Sứ điệp kết thúc bằng ca khúc của các Thiên thần gồm hai phần, mà mỗi phần gồm ba yếu tố song song với nhau. Ở phần thứ nhất ta thấy có ‘trời, vinh danh và Thiên Chúa’. Phần hai có ‘thế trần, hoà bình và con người’.
Thiên Chúa ở trên trời sẽ đón nhận danh dự và vinh quang, vì vinh quang của Ngài vẫn dấu kín, sẽ bộc lộ nhờ Con Ngài. Còn chính Chúa Giêsu, mà mọi tác động của Ngài đều mang dấu vô biên sẽ có thể thực sự tôn vinh Thiên Chúa mà không một tạo vật nào có thể làm được. Bây giờ ở dưới thế, bình an sẽ ngự trị vì trời và đất giao hoà trong ơn thánh. Và tất cả những điều ấy có được là do lòng từ ái của Thiên Chúa ban cho nhân loại nhờ Thiên Chúa Nhập Thể.
Như vậy bài ca của các Thiên Thần là điệp ca trang trọng của Thánh vịnh về đời sống Chúa Giêsu, bài ca mang nặng ý nghĩa của một biến cố vĩ đại đang được thực hiện trên sân khấu cuộc đời này. Hơn cả một lời cầu chúc hay lời nguyện xin. ‘Chúc tụng Thiên Chúa’ đó là một lời loan báo và cũng là một lời tuyên ngôn vệ một sự kiện: vinh danh dâng lên Thiên Chúa và an bình ban xuống nhân loại. Giờ cứu độ đã điểm, công việc cứu rỗi đã bắt đầu vì Chúa hoàn vũ đã sinh ra.
Và đây là kết quả đầu tiên, các mục đồng quyết định đón nhận lời loan báo trong niềm tin và đi theo lời đó. Sau khi tìm kiếm, họ đã thấy Đức Maria, Thánh Giuse, và Hài nhi. Sự kiếm tìm đã không bõ công; họ đã ngạc nhiên, đầy thán phục.
Qua sự im lặng, người Mẹ trẻ đã cho thấy sự hân hoan được diễn tả trong bài Thánh ca ngợi khen của Mẹ nay nhường chỗ cho một sự suy niệm đầy an bình, và việc các mục đồng trở về với đời sống thường nhật quen thuộc giúp chúng ta nhận ra được là việc khám phá ra Chúa không có nghĩa là phải có sự thay đổi hoàn cảnh bên ngoài, nhưng là sự biến đổi sâu xa trong lòng.
Vì thế, trong cảnh trí này, nổi bật một sự mâu thuẫn:
Chúa Giêsu bị che dấu nay lại tỏ hiện, bị hạ xuống, nhưng rồi được tôn vinh; trao cho hai tạo vật yếu đuối săn sóc, nhưng được các thiên thần canh giữ; yếu hèn thực đó, nhưng lại là vị cứu tinh nhân loại. Hoàn toàn là người trong mọi sự, nhưng rạng ngời ánh quang của Thiên Chúa.
Trình thuật Kinh thánh nhấn mạnh trên sự mâu thuẫn này là giới thần thiêng đã đi sâu vào sự thấp hèn của nhân loại, nhưng qua đó lại chiếu ngời lên để tôn vinh Thiên Chúa.[Mục Lục]
Từ nhiều thế kỷ nay, những bài Phúc Âm tường thuật về cuộc đời thơ ấu của Chúa đã kích thích trí tưởng tượng thi nhân và nuôi dưỡng lòng đạo đức của bao tâm hồn đơn sơ. Còn ngày nay chúng làm đối tượng cho những sự phân tích tinh vi và óc tưởng tượng huyền hoặc của một số trí khôn phức tạp đã tìm cách hạ thấp chúng xuống cho ngang với tầm mức của mình. May mắn thay, có một khoa học nghiêm chỉnh vẫn duy trì những bài tường thuật ấy ở trình độ mà Giáo Hội từ xưa nay vốn đặt chúng. Bài tường thuật của thánh Luca kể lại một sự kiện. Ngài kể lại một cách giản dị không vẽ vời thêu dệt, khả dĩ giúp ta chiêm thờ được. Ở đó người ta không nhận thấy một cách tỏ tường như trong những bản văn khác, cái mối ưu tư của tác giả là làm sao đặt việc Chúa Giáng Sinh trong tương quan với những gì đã được loan báo bởi Cựu Ước. Nhưng người ta bắt gặp cái tư tưởng tiêu biểu của thánh sử Luca: là Đức Giêsu Kitô là Cứu Chúa. Hôm nay, trong thành Đavít, một vị Cứu Tinh đã sinh ra cho các ngươi. Ta thử đứng thật sát đoạn văn đơn sơ mà tuyệt vời này để rút ra một vài nét về ý nghĩa của danh xưng ‘Cứu Chúa’.
* Chúa Giêsu là Cứu Chúa đã được hứa hẹn. Đó là lý do tại sao Người được mô tả là phát sinh từ dòng dõi Đavít, ít ra về mặt pháp lý, và điều đó rất quan trọng trong xã hội Do Thái.
* Chúa Giêsu sinh ra bởi một Trinh Nữ. Thánh Mátthêu cho ta biết thánh Giuse đã nhận Maria làm bạn trăm năm trong hoàn cảnh nào.
* Chúa Giêsu là một con người. Người là Con Thiên Chúa, nhưng cũng là người thật. Người đã bắt đầu cuộc sống và sự sống Người đã nẩy nở trong lòng Maria. Sinh ra bởi một người phụ nữ, như thánh Phaolô nói, Người không tách rời khỏi lịch sử, là lịch sử của mọi người. Người không giả bộ làm người; Người là người thật.
* Chúa Giêsu được loan báo cho người nghèo khó, cho người chăn chiên, nghĩa là người đến trong nhân loại thông thường nhất, giữa hạng người không có thời giờ để lo sao cho có nhiều tiện nghi, hạng người bám vào phận sự hàng ngày cốt sao cho được sống mà thôi.
* Người mang tới sứ điệp vinh quang và bình an, nghĩa là người đến tái lập trong linh hồn con người cái ý thức rằng Thiên Chúa là Chúa, Người tập hợp loài người lại và bảo họ rằng Chúa yêu thương tất cả mọi người, vì thế họ là anh em với nhau.
Ngoài ra, chúng ta hãy nêu lên trong bài tường thuật này một sắc thái căn bản mà con người thời đại ta đang cần, đó là sự thờ phượng.
+ Thờ phượng, ấy là đức tuân phục của Maria và Giuse đến Bêlem, khi nhận ra ý Chúa qua một biến cố, là cuộc kiểm tra dân số.
+ Thờ phượng, ấy là công bố rằng: Hài Nhi chính là Đức Kitô Chúa Tể. Sự sợ hãi của bọn mục đồng có thể tan biến khi viếng máng cỏ, nhưng Hài Nhi gần gũi với họ đó, vẫn là Thiên Chúa. Ta hãy nghĩ tới Thánh Thể; bí tích ấy làm cho Thiên Chúa trở nên gần gũi ta, và một sự tục hóa thiếu suy nghĩ có khuynh hướng coi thường. Một cộng đoàn họp mặt cử hành Thánh Thể nâng cao con người trong lời ngợi khen và tạ ơn.[Mục Lục]
Tại miền Nam nước Pháp, có một máng cỏ khá nổi tiếng. Trong số các nhân vật đứng và quì nơi máng cỏ này, du khách thường chú ý tới một con người nhỏ bé với hai bàn tay trống trơn và mở rộng, nhưng gương mặt lại để lộ một vẻ ngạc nhiên khó mà diễn tả nổi. Vì thế, người ta đã đặt cho nhân vật này cái tên gọi là Ngạc Nhiên. Dân địa phương thường giải thích về sự ngạc nhiên của anh bằng một mẩu chuyện như sau:
Hôm đó, tất cả các nhân vật nơi máng cỏ, kể cả mấy chú bò lừa đều tỏ ra khó chịu đối với anh, bởi vì anh không có gì để mang tặng cho Chúa Hài nhi, ngoài hai bàn tay trống trơn của mình. Và thế là họ bắt đầu xỉ vả anh:
– Mày không biết xấu hổ hay sao? Mày đến thăm Chúa Hài nhi mà không mang theo gì cả ư?
Thế nhưng, anh không để lộ một phản ứng nào, ngoài cặp mắt mở to và chăm chú nhìn vào Hài nhi Giêsu. Những lời rủa xả vẫn cứ tiếp tục trút xuống trên anh, đến nỗi Mẹ Maria phải lên tiếng bênh vực cho anh.
Quả thực, mặc dù đã đến với Chúa Hài nhi bằng đôi bàn tay trằng, thế nhưng anh đã mang tới một món quà cao đẹp nhất, đó là sự ngạc nhiên của anh. Điều này có nghĩa là Tình Yêu bao la của Thiên Chúa đã chiếm trọn tâm tư anh. Và Mẹ Maria đã kết luận như sau:
– Thế giới này sẽ kỳ diệu biết bao nếu như luôn có những người giống anh, biết ngây ngất và ngạc nhiên trước quyền năng và tình thương vô biên của Thiên Chúa.
Thực vậy, chúng ta thường nói:
– Ngạc nhiên là khởi đầu của mọi khám phá.
Có biết ngạc nhiên, có biết đặt câu hỏi, người ta mới đưa ra những giả thuyết, người ta mới tìm tòi, khảo sát và khám phá. Sự tiến bộ của loài người bắt nguồn từ chính sự ngạc nhiên ấy.
Trong lãnh vực siêu nhiên cũng vậy. Thiên Chúa đã ban cho con người khả năng biết ngạc nhiên để rồi từ đó khám phá ra quyền năng và tình thương của Thiên Chúa. Đúng thế, khi nhìn ngắm những kỳ công trong vũ trụ, cùng với trật tự lạ lùng của nó, chúng ta không khỏi ngạc nhiên và thán phục.
Từ chỗ ngạc nhiên và thán phục này, chúng ta phải đi đến một kết luận, đó là có Thiên Chúa và Ngài là Đấng quyền năng và thương xót, đã dựng nên, an bài sắp xếp và bảo tồn mọi sự. Hay như một câu danh ngôn đã bảo:
– Thiên nhiên là một cuốn sách vĩ đại, mà mỗi trang, mỗi dòng, mỗi chữ đều nói cho chúng ta biết về Thiên Chúa.
Vũ trụ này là một cuốn sách được mở ra để mời gọi con người tìm đọc lời ngỏ đầy yêu thương của Thiên Chúa.
Tiếp đến, khi nhìn vào lịch sử nhân loại, cũng như cuộc đời riêng tư, chúng ta cũng không khỏi ngạc nhiên trước biết bao ơn sủng mà Ngài đã trao ban, để rồi chúng ta sẽ khám phá ra bàn tay của Thiên Chúa luôn hướng dẫn và dìu dắt nhân loại, cũng như mỗi người chúng ta trên vạn nẻo đường đời.
Và giờ đây trước máng cỏ Bêlem, nếu thực sự biết ngạc nhiên, chúng ta sẽ khám phá ra tình thương bao la của Thiên Chúa. Thực vậy, lời hứa từ thuở ban sơ, hôm nay đã được thực hiện, Thiên Chúa đã tỏ bày tình thương của Ngài bằng cách trao ban cho chúng ta chính Con Một của Ngài, hay nói theo kiểu thánh Phaolô: Thiên Chúa bước xuống phận con người, để con người tiến lên ngôi Thiên Chúa.
Trước máng cỏ Bêlem, bằng cặp mắt đức tin hẳn chúng ta sẽ phải ngạc nhiên vì tình yêu Thiên Chúa đã dành cho chúng ta, để rồi từ sự ngạc nhiên ấy, chúng ta sẽ tin tưởng và phó thác cho tình yêu của Ngài. Khi gặp những sự may mắn, chúng ta dâng lên Ngài lời cảm tạ đã đành, mà ngay cả lúc khổ đau và đắng cay, chúng ta vẫn có thể nhận ra dấu ấn tình yêu của Ngài. Trong mọi sự, người biết ngạc nhiên sẽ luôn luôn nhận ra tình yêu của Thiên Chúa, bởi vì tất cả đều là hồng ân.
Ước gì trong Mùa Giáng Sinh này, chúng ta hãy đến bên hang đá máng cỏ, ngạc nhiên trước tình thương tuyệt vời của Thiên Chúa, để rồi dâng lên Ngài tâm tình cảm mến tri ân.[Mục Lục]
(Suy niệm của Lm Thái Nguyên)
Chúng ta mừng lễ Chúa Giáng Sinh không chỉ để tưởng niệm một biến cố đã qua hơn 2000 năm nay, hoặc để kỷ niệm ngày sinh của một con người siêu vượt, nhưng là một thực tại phát sinh ơn cứu độ cho tất cả nhân loại chúng ta, đúng như Lời Kinh Thánh:
Hôm nay Chúa Kitô, Đấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng ta. Những ai tin nhận và yêu mến Ngài thì tràn đầy hy vọng đạt tới chính Thiên Chúa, là niềm vui sự sống muôn đời.
Ai cũng có một khát vọng sâu xa là muốn được tồn tại và hạnh phúc mãi mãi. Người ta đua nhau đi tìm kiếm điều đó nơi các thần tượng, các triết thuyết, các chế độ, các tổ chức xã hội… Nhưng chẳng có thần minh nào, triết thuyết nào, cũng chẳng có tổ chức xã hội hay hệ thống kinh tế nào, hay bất cứ ai có thể ban cho chúng ta điều đó, vì tất cả chỉ là tạm bợ, là hư vô, là những kẻ phải chết.
Chỉ có Thiên Chúa qua Đức Giêsu Kitô mới làm cho chúng ta được toại nguyện khát vọng vĩnh cửu đó thôi. Vì thế, những ai chỉ lo đi tìm thỏa mãn vật chất, danh vọng, tiền tài trong cuộc đời này mà quên mất lẽ sống chân thật của mình là chính Thiên Chúa, thì đều là những kẻ chạy theo ảo vọng.
Gốc gác của mỗi người chúng ta là thần linh. Dù tin hay không tin, dù nhận biết hay không nhận biết, thì đó vẫn là sự thật, bởi vì chúng ta được sinh ra từ chính sự sống và tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa. Và chỉ có Thiên Chúa mới đưa chúng ta trở về cội nguồn là chính Ngài. Chỉ có Ngài mới ban cho chúng ta khả năng hoàn thành một cuộc đời tốt đẹp nhất, và cho chúng ta đạt tới cuộc sống sung mãn nhất. Chính vì vậy mà Thiên Chúa đã làm người, đã sống trọn kiếp người, và trở nên mô mẫu của việc làm người cho mỗi người chúng ta.
Khi chiêm ngắm Mầu Nhiệm Giáng Sinh, ta mới thấy Thiên Chúa yêu thương nhân loại chúng ta sâu thẳm dường nào, và từ đó ta cũng nhận ra thân phận cao cả của mình là con cái Thiên Chúa. Vì yêu thương vô biên, nên Chúa đã chọn bước xuống làm người bé mọn, chọn cha mẹ quê mùa, chọn gia đình vô danh, chọn nơi chốn sinh ra tồi tàn, chọn cuộc sống nghèo hèn, chọn hoàn cảnh bấp bênh, chọn một dân tộc cứng đầu cứng cổ, chọn những môn đệ yếu kém, chọn con đường thập giá, chọn chén đắng ô nhục, và cuối cùng, chọn cái chết bi thảm (x.Pl 2, 6-8).
Có ai được tự do hoàn toàn và quyền năng vô cùng, mà lại lựa chọn cuộc sống như thế không? Chẳng ai làm thế ngoài một mình Thiên Chúa. Thiên Chúa đã chọn làm người như thế, để không ai còn có thể than trách về số phận hay tình cảnh của mình, mà phải nhận ra thân phận Chúa trong chính thân phận mình. Dù cuộc đời mình có gian nan khốn khó nào đi nữa thì cũng là cuộc đời của chính Thiên Chúa đã làm người.
Mầu nhiệm Thiên Chúa làm người cho ta tuyệt đối xác tín rằng: Chúa đã một lần giáng sinh trong cuộc đời ta, Ngài đã bước xuống lòng ta. Từ đó Ngài ở trong ta và âm thầm sống cho ta. Ngài thật sự đảm nhận trọn vẹn cuộc đời ta qua mọi tình trạng và hoàn cảnh. Ngài đã đón nhận và cùng đau cái nỗi đau của ta qua những vấp váp, yếu đuối, trì trệ và thất bại; Ngài đang đón đợi và hoàn thiện hoá từng nổ lực kiên trì vươn lên của bản thân ta trong mọi lúc. Quả thật, chính Chúa đang sống trong ta, và cho ta kinh nghiệm sống trong Chúa.
Lễ Giáng Sinh nhắc nhở, mời gọi và thúc đẩy ta biết chọn Chúa một cách quyết liệt hơn để hoàn thành sự sống cao cả của mình. Hãy để cho Chúa Giêsu bước vào cuộc đời mình, được cư ngụ trong tâm hồn mình. Hãy để Ngài được sinh ra và lớn lên trong cuộc sống của mỗi người chúng ta, để chúng ta được trở nên khuôn mặt và tấm lòng của Ngài ở giữa mọi người. Để từ đó ta có thể trao ban Chúa Giêsu cho người khác bằng chính sự hiện diện của mình: một sự hiện diện khiêm hạ và đầy nhân ái yêu thương; một sự hiện diện đem lại bình an, vui mừng và tràn đầy hy vọng cho mọi người chung quanh.[Mục Lục]
Vì sao gọi lễ cử hành hôm nay là “Đêm Thánh”? Nói cho ngay, về lịch sử, ta không có cơ sở nào để khẳng định rằng Hài Nhi Giêsu đã chào đời vào ban đêm. Đành rằng chúng ta có bản trình thuật kể chuyện các mục đồng canh giữ súc vật trong đêm tối và họ nghe sứ điệp từ trời báo tin về cuộc sinh hạ của Đấng Cứu Thế, nhưng tự nó, bản trình thuat ấy cũng không phải là bằng chứng cho phép ta kết luận rằng Đức Giêsu đã sinh ra vào ban đêm. Thế nhưng, truyền thống Kitô giáo vẫn luôn cho rằng cuộc chào đời hồng phúc này của Đấng Cứu Thế đã diễn ra trong một đêm tối. Người Đức thậm chí hội nhập niềm xác tín ấy vào chín tên gọi của lễ mừng: Weih-nacht (Đêm Thánh). Vì sao?
Đêm tối, đối với con người, vẫn có hai khía cạnh. Nó mang một ý nghĩa kép, một ý nghĩa “hàm hồ”- cũng như hầu hết mọi yếu tố khác trong cuộc đời này. Đêm tối gợi lên một cái gì thâm u, huyền bí, là thời gian mà không ai có thể làm việc- như Đức Giêsu nói đến trong Thánh Kinh. Đêm tối được cảm nhận gần như là sự chết. Đêm tối là bất định, bất quyết và hiểm nguy. Đêm tối là trùng khơi mịt mù. Vì thế, trong cảnh vực tôn giáo, đêm tối mang đầy ý nghĩa biểu tượng. Trong Thánh Kinh, đêm tối tượng trưng cho thời gian bất tín và tội lỗi, thời gian Chua đến thăm và phán xét. Vì thế, Kitô hữu phải là con cái của ban ngày, họ phải chiếu sáng như những vì sao trong bóng đêm – để không bị bất ngờ bởi vị thẩm phán đến thình lình như kẻ trộm giữa đêm khuya. Chúng ta phải tỉnh thức, chúng ta không được ngủ say, chúng ta phải trỗi dậy và bước đi như thể đang bước đi giữa ánh sáng ban ngày.
Nhưng trong cảm nhận của con người, cũng được hàm chứa trong Thánh Kinh, đêm tối còn có một khía cạnh khác nữa. Đêm tối là lúc thinh lặng và rút lấy sức mạnh. Đó là lúc chỉ còn mình với mình, sẵn sàng đợi chờ và cho phép mọi sự triển nở, lớn lên. Chính vào lúc nửa đêm mà người ta nghe tiếng kêu: “Kìa chàng rể đến!”. Đêm toi trong Thánh Kinh còn là thời gian của những giấc mơ hướng vọng trời cao. Đêm tối là thời gian thoát ly khỏi những ràng buộc của nhịp sống ban ngày, nên đó là thời gian cầu nguyện – vì thế, Đức Giêsu đã trải qua những đem trắng cầu nguyện cùng Cha. Đêm tối được nhìn nhận như công trình của Thiên Chúa – và tác giả Thánh vịnh có thể thốt lên: “Ngày là của Chúa, đêm cũng là của Chúa…” (Tv 74,16). Daniel (3,71) kêu gọi đến bóng đêm chúc tung Thiên Chúa – và theo tác giả Thánh vịnh, “đêm này kể lại với đêm kia” sứ điệp về vinh quang Thiên Chúa (19,3), cũng như trời xanh mênh mông nhắc cho ta về sự vĩ đại của Ngài.
Tại sao chúng ta có thể cảm nhận về đêm tối theo những chiều hướng khác nhau như thế? Chúng ta kinh nghiệm đêm tối như một sự bắt đầu, như một cái gì đó vẫn còn bất định, nhưng cái đến sau đêm tối thì hết sức rõ ràng: đó là một bình minh rực rỡ! Tuy nhiên, sự bắt đầu và những khả năng ẩn chứa trong sự bắt đầu ấy thường rất bấp bênh – như một lời hứa nghe thật hay nhưng chưa được thực hiện, như một triển vọng to lớn nhưng chưa hiện thực, như một kế hoạch tuyệt vời nhưng chưa được triển khai… Tất cả đều còn đó ý nghĩa hàm hồ: vừa đầy hứa hẹn lại vừa đầy đe doạ, dự phóng sẵn đó rồi mà mục tiêu còn quá xa xôi và không chắc sẽ có ngày hoàn tất…
… Nhưng nếu có một đêm tối mà cái khởi điểm vô định lại mang sẵn trong mình nó sự chắc chắn hoàn thành, nếu có một đêm tối mang sẵn trong mình nó mối bảo đảm khải thắng, nếu có một đêm tối mở ra lời hứa song đồng thời cũng là lời hứa được lấp đầy … thì đêm ấy hẳn phải là Đêm Thánh. Đêm! Vì chỉ mới khởi đầu thôi. Đêm Thánh! Vì đây là một khởi đầu hồng phúc và tất thắng. Với một đêm như thế, chúng ta phải thốt lên: Ôi, Đêm Thiêng! Đêm Thánh! Như bài ca nào đó đã trở thành bất hủ: “Đêm Thánh vô cùng. Giây phút tưng bừng…”.
Không phải tình cờ mà vào thế kỷ thứ tư, lễ này được đặt vào đúng thời điểm mà thiên nhiên – cách riêng mặt trời – bắt đầu lại chu kỳ của nó. Thời ấy, người ta gán sự bắt đầu của “Mặt Trời Công Chính” (danh hiệu của Đấng Cứu Độ chúng ta theo sấm ngôn) cho ngày natalis solis invicti của dân ngoại, tức lễ mừng sinh nhật “thần mặt trời bất khuất”.
Một gán ghép vô cùng chính xác! Vì đây la phút giờ thánh thiêng. Đức tin cho các Kitô hữu biết rằng: Đây là sự khởi đầu. Thiên Chúa, từ ánh sáng chói lọi ‘khủng khiếp’ của Ngài, đã đến với chúng ta – thật lặng lẽ, thật êm dịu. Ngài đó, Thiên Chúa đó, đã am thầm bước vào cõi dương trần khốn khổ của chúng ta. Ngài đã làm người, và Ngài bắt đầu một kiếp người y như chúng ta: rất bé nhỏ, rất mong manh, yếu ớt, bất lực. Ngài là tương lai vô cùng thăm thẳm mà chúng ta không bao giờ có thể tự mình vươn tới được – bởi vì, trên con đường gập ghềnh của cuộc sống mình, ta càng sấn đến, chân trời ấy càng lùi xa. Nhưng chính Ngài đã đến với ta, đã đến ở giữa ta – vì nếu chẳng vậy, ta sẽ không bao giờ có thể đến được với Ngài.
Ngài đồng hành với chúng ta trên con đường chúng ta đi về với Ngài – nhờ đó, con đường chúng ta đi chắc chắn có một đích điểm hồng phúc. Kỳ thực, đích điểm ấy đã hoá nên khởi điểm của chung ta rồi. Thiên Chúa đã ở bên ta. Lời ân phúc vĩnh cửu của Ngài đã ở giữa chúng ta. Lời ấy gieo bước hành trình với ta, cảm nghiệm niềm vui nỗi buồn của ta, sống cuộc sống và chết cái chết của ta. Ngài đã cứu chuộc ta, bằng con đường san sẻ chính số phận của ta. Ngài lấy khởi điểm của ta làm khởi điểm của Ngài. Ngài bước đi trên con đường định mệnh của ta và – qua đó – mở định mệnh ấy ra tới tầm vô hạn của Thiên Chúa. Và bởi vì Ngai dứt khoát chấp nhận chúng ta, bởi vì Ngôi Lời Thiên Chúa sẽ không bao giờ ngừng là người, nên khởi điểm này – của ta và của Ngài – là khởi điểm của những lời hứa không thể xóa nhoà, và sự bắt đầu lặng lẽ của Ngai trong đêm tối ấy đã làm cho nó trở thành Đêm Thánh Thiêng!
Cử hành Giáng Sinh là cử hành mầu nhiệm Đêm Thánh ấy. Con tim chúng ta phải lắng đọng, thanh thoát, và phải mở rộng ra như quả tim của một trẻ thơ chưa hề biet khép lại trước bất cứ khả tính nào của hiện hữu mình, nhưng hoàn toàn sẵn sàng đón nhận tất cả…
Chúng ta phải dám ôm lấy sự yên lặng thâm u này vào tận đáy hồn mình bằng cách không chạy trốn vào công việc làm ăn, vào những cuộc chè chén hay những câu chuyện gẫu lê thê mà ta dùng để tránh né chính mình và tránh né mầu nhiệm phủ xuống trên mình (bởi vì – do lạ lẫm – chúng ta đâm ra hoảng sợ trước mầu nhiệm của tình yêu vô hạn ay). Đêm Thánh là đêm mà cả cuộc sống của chúng ta cũng trở thành thánh thiêng; chúng ta không được phép xúc phạm đến Đêm Thánh bằng những cuộc vui quá đỗi trần tục. Tính cách chân tình, giản dị, hồn nhiên – vốn hoàn toàn phù hợp với Lễ này – cũng phải giữ cho được sự trong suốt trước mầu nhiệm khôn tả, mầu nhiệm làm cho người ta thân tình sâu xa với nhau và trao cho họ lời hứa xuân xanh mãi mãi.
Lễ Giáng Sinh phải được cử hành như nó đáng được cử hành, nếu không, nó sẽ tha hoá thành một lễ hội thuần tuý trần tục. Trong thinh lặng của Đêm Thánh cô tịch này và trong lòng dạt dào cảm mến, chúng ta chấp nhận rút vào trong đáy lòng mình tất cả những con người, những sự vật, những loay hoay căng thẳng vốn thường dễ che khuất không cho ta nhìn cái vô cùng – chỉ khi ấy chúng ta mới có thể cử hành Lễ Giáng Sinh đúng nghĩa. Đôi khi, ít nhất là trong một khoảnh khắc ngắn ngui nào đó, người ta dập tắt những ánh sáng trần tục vốn che khuất không cho phép mình nhìn thấy sao trời, và người ta đặt mình trước sự hiện diện kỳ diệu khôn tả của Thiên Chúa, sự hiện diện “lên lời” bằng chính cái thinh lặng của nó, và ta chỉ có thể ‘nghe’ được nếu biết lắng nghe. Chúng ta hãy cảm nhận như khi một mình bước đi dưới bầu trời đêm đông đầy sao; Chúng ta vẫn nghe bịn rịn nhớ nhung hơi ấm của người thân và của tất cả những gì quen thuộc dưới mái nhà mình, nhưng phía trên đầu chúng ta là bầu trời, và trong sự yên ắng ấy của màn đêm (sự yên ắng mà vào những lúc khác có thể làm cho chúng ta kinh sợ), chúng ta bắt gặp sự hiện diện lặng lẽ của mầu nhiệm vô cùng: mầu nhiệm hiện hữu của mình, mầu nhiệm vừa đầy ắp tình yêu cứu độ vừa lớn lao khôn dò.
Giáng Sinh là Đêm Thánh! Cái tương lai vô cùng đã đi vào trong thời gian của chúng ta rồi. Ánh sáng chói loà của nó vẫn còn tràn ngập chúng ta. Và ta nghĩ chắc hẳn Chúa đã ra đời vào một đêm tối! Dù gì đi nữa thì đó cũng là đêm, một đêm hồng phúc, một đêm ngập tràn hơi ấm và ánh sáng, một đêm rất tuyệt diệu và rất thực – bởi không gì chắc chắn bằng ngày vĩnh cửu mà đêm này cưu mang trong mình nó. Tuy nhiên, đêm này chỉ là Đêm Thanh, Đêm Thánh cho chúng ta nếu chúng ta đón nhận sự yên lặng thánh của đêm này vào trong trái tim mình, nếu trai tim chúng ta thức tỉnh.
Sự yên lặng và cô tịch ấy nào quá gay go! Cái khó, nếu có, là cái khó chung của mọi điều cao cả: nó vừa thật đơn giản vừa rất lớn lao! Không khó, vì dĩ nhiên cái cô tịch vốn nằm sẵn trong ta. Trong trái tim ta vốn có một vùng sâu kín của riêng mình, một vùng mà không ai có thể dò dẫm tới ngoại trừ Thiên Chúa. Nơi sâu thẳm ấy thực có đó. Vấn đề là chúng ta ngu ngơ sợ hãi và tránh né nó – ta sợ, vì không ai và không gì quen thuộc trên đời này có thể đi theo mình nếu mình bước chân vào vùng đất ấy! Nào, đừng sợ nữa, hãy lặng lẽ bước vào và đóng cửa lại phía sau mình. Hãy lắng nghe giai điệu vô ngôn vang lên trong yên ắng của màn đêm cô tịch.
Ở đó, linh hồn ta tấu lên với Thiên Chúa khúc ca trầm lắng nhất và nồng nàn nhất. Và ta tin chắc rằng Ngài đang nghe mình rất rõ. Vì khúc ca ấy không còn phải kiếm tìm đến một Thiên Chúa trên trùng khơi thăm thẳm chẳng thể nào dò tới được. Chúa đã giáng sinh rồi, Ngôi Lời đã trở thành xác phàm, nên Ngài đang ở ngay đây – và lời nói thầm thì nhất trong đáy lòng ta, lời nói tỏ tình, sẽ được Ngài lắng nghe rất rõ. Va những ai đã bước vào trong cõi cô tịch của lòng mình như thế, ngay cả dù tối tăm thăm thẳm, nhất định sẽ nghe được tiếng thầm thì yêu thương của Ngài. Nào, đừng sợ đêm tối nữa, và hãy lắng hồn xuống. Nếu không, chúng ta sẽ chẳng nghe gì. Vì tiếng nói cuối cùng chỉ cất lên trong sự yên lặng của đêm tối – đêm tối đời ta – qua sự xuất hiện hồng phúc của Ngôi Lời. Ngài đã đến rồi đây.
Đêm Thánh vô cùng…
Giây phút tưng bừng…[Mục Lục]
Nhiều thế kỷ trước đây tại nước San Marinese, có một ông vua rất kính sợ Thiên Chúa và thương yêu dân chúng. Ông sống chính trực và rất được dân chúng kính trọng, mến phục. Nhà vua không chỉ hài lòng với cuộc sống trên dung lụa của hoàng cung, cũng không chỉ nghe theo lời báo cáo tường trình của các quan cận thần mà thôi. Để biết rõ hơn về hoàn cảnh sống của dân chúng, nhà vua thường hay cải trang đủ cách để có thể đi lại dễ dàng và trà trộn giữa mọi lớp người để không bị theo dõi hoặc chú ý tới. Một hôm nhà vua cải trang với manh áo rách vá chằng chịt như một người hành khất và đến ngồi ăn xin tại một công viên. Nhà vua làm quen với người phu quyét đường thường ngồi nghỉ trên ghế công viên, ăn qua loa nắm cơm nguội dưới ánh nắng mặt trời nắng gắt. Ngày qua tháng lại, nhà vua trở nên như bạn thân của người phu quét đường. Họ chia sẻ từng nắm cơm, ly nước và chuyện trò vui vẻ như hai người bạn thân vậy. Sau cùng vua quyết định nói sự thật và tỏ mình cho người phu quét đường biết mình là ai. Nhà vua còn bảo người phu quyét đường có thể xin điều gì mà anh ta ưa thích nhất như mòn quà kỷ niệm tình bạn thân thiết ấy. Nghe nhà vua tỏ tình thương mến, người phu quét đường trố mắt ngạc nhiên nhìn nhà vua và nói: Thưa hoàng đế, nhà vua đã không quản ngại khó nhọc, khước từ vinh quang của cung điện để đến chia sẻ nắm cơm chén nước và những khó nhọc của bần hèn này. Nhà vua có thể ban tặng cho quan thần những món quà quí giá, nhưng đối với phận hèn này nhà vua đã dành cho món quà lớn nhất là chính mình. Vì thế nếu được, phận hèn này chỉ xin một điều duy nhất, là xin nhà vua đừng cất đi tình bạn mà nhà vua đã dành cho kẻ hèn từ trước tới nay.
Thật vậy, tình bạn là một trong những món quà lớn lao, quí giá nhất mà con người có thể nhận được. Tình bạn là mối dây liên kết vượt hẳn lên trên những mục đích chung của công việc làm, của những lợi lộc hoặc những vấn đề cá nhân. Tình bạn chân thật là sự hiện diện cạnh bạn khi vui cũng như lúc buồn, cho dù không thể tăng thêm niềm vui, cũng chẳng biết làm vơi đi nỗi buồn của bạn. Tình bạn làm cho cuộc sống thêm tươi sáng. Có bạn cuộc đời cũng đỡ bớt cô đơn. Trong Phúc âm, chính Chúa Giêsu cũng đã để cao giá trị của tình bạn khi Ngài nói với các môn đệ rằng: “Thầy đã gọi chúng con là bạn hữu, vì Thầy đã tỏ cho chúng con am tường mọi điều Thầy nghe nơi Cha Thầy”. Cũng vì tình yêu cao quí mà Chúa Giêsu đã tự nguyện đến trần gian mặc lấy thân phận con người. Niềm vui của Chúa Giêsu là trở nên như chúng ta những con người yếu đuối hạn hẹp mà Người đã muốn nâng lên hàng bạn hữu, là trở nên thành phần của đại gia đình nhân loại và cùng đi với chúng ta trên con đường trở về với Thiên Chúa Cha. Đấng Emmaunuel: Thiên Chúa ở cùng chúng ta chính là món quà cao cả nhất. Thiên Chúa ở với loài người, là ý nghĩa sâu xa nhất của mầu nhiệm Giáng Sinh Nhập Thể.[Mục Lục]
Chúng ta không cử hành lễ Giáng sinh như để kỷ niệm một biến cố đã qua, một biến cố tràn đầy hạnh phúc nhưng đã chìm vào dĩ vãng. Vậy đâu là ý nghĩa của ngày lễ hôm nay?
Trong ngày lễ này, chúng ta xác tín: Thiên Chúa đã trở nên hữu hình đối với chúng ta. Ngài không còn là Thiên Chúa xa lạ, cách ta nghìn trùng nữa. Thiên Chúa đã đến với loài người. Ngài đã đến giữa loài người như một người trong chúng ta, sinh bởi một người phụ nữ, cần đến tất cả sự chăm sóc và âu yếm của mẹ Ngài, thừa hưởng cả một quá khứ gia đình. Việc Ngài sinh ra được bao bọc bởi vài thành viên trong gia đình và những người chất phác có Kitô hữu năng thán phục trước một hài nhi đã ra đời. Ngài đã đến trần thế này để dự phần vào những vui buồn của mỗi người trong chúng ta. Ngài không yêu cầu đặc ân nào ngoài đặc ân được ở giữa những người nghèo. Ngài đã có một chỗ đứng trong dòng tộc với quá khứ và tương lai của dòng họ. Tổ tiên của Ngài là những người chăn nuôi súc vật, những kẻ di dân, những người lao động tay chân và những người đánh giặc. Vài người trong họ đã để lại kỷ niệm xấu vì giết chóc và trộm cướp. Những người khác là những người có đức tin và lòng sùng đạo rất lớn với những nhân đức khiêm tốn nhưng bền bỉ. Chính như vậy đó mà Thiên Chúa đã trở nên hữu hình trong sự giống hệt loài người. Ngài không mặc lấy nhân tính của chúng ta như một bộ y phục. Ngài đã nhập thể và ở giữa chúng ta. Thiên Chúa không ngừng trở nên hữu hình! Lý do của việc con Thiên Chúa nhập thể là “Thông ban ân sủng để cứu độ hết thảy mọi người”. Lý do này không bao giờ bị rút lại. Nó vẫn còn đó và luôn luôn được thể hiện.
Chúng ta không cử hành lễ Giáng sinh như để kỷ niệm một biến cố đã qua mà ta không muốn quên, nhưng đây là lễ đón mừng một hồng ân hiện đang được ban cho loài người. Đôi khi người ta nói về một người mà sự nghiệp đặc biệt lừng lẫy nên người ấy vẫn tiếp tục sống ở giữa chúng ta do ảnh hưởng công việc của họ. Nhưng đó chỉ là một cách biết ơn nhân vật quá cố thôi. Vì người ấy cũng như sự nghiệp của họ không tồn tại mãi mãi được.
Nhưng công trình của Thiên Chúa, ân sủng làm cho chúng ta trở nên con cái của Ngài vẫn luôn luôn được thể hiện. Thiên Chúa đã trở nên hữu hình trong những cách hiện diện với loài người mà Chúa Giêsu đã chọn sau cuộc Phục sinh của Ngài: Cộng đoàn Giáo Hội, sự hiệp thông giữa các môn đệ của Ngài, là thân mình Ngài, sự hiện diện của lời Ngài nơi những tâm hồn biết lắng nghe trong đức tin, và Bí tích Thánh Thể, hồng ân và dấu chỉ sự hiện diện thật sự của Ngài. Mối tương quan mà những kẻ đã sống với Chúa Giêsu có thể thiết lập với Ngài trong đức tin và đức cậy, cũng có thể được đối với mỗi người chúng ta. Chúa Kitô bao giờ cũng niềm nở và lắng nghe, bao giờ cũng đầy lòng thương xót và luôn sẵn sàng ban sự sống như thế cả.
Lễ Giáng sinh mà chúng ta cử hành với một niềm vui lớn lao cũng thực sự là lễ mừng ngày chúng ta được sinh vào đời sống thiêng liêng mà con Thiên Chúa đến ban tặng cho chúng ta.[Mục Lục]
Đã biết bao nhiêu đêm như đêm nay đã đến với đời mỗi người chúng ta. Thế mà cứ mỗi lần nhìn thấy hang đá, ngắm những trang trí lạ mắt, ánh sáng rực rỡ lung linh, tiếng đàn tiếng hát du dương hớn hở, chung quanh ai nấy ăn mặc, trang điểm xinh đẹp thì tâm hồn chúng ta lại dâng trào niềm vui khôn tả. Chính lúc ngây ngất sung sướng đó, mỗi người chúng ta không thể không đưa mắt chiêm ngắm Chúa Hài đồng xinh xắn mà thương mến mà thầm ước.
Và có lẽ, trong giây phút linh thiêng trang trọng này, ai cũng tự hỏi mình phải làm gì cho Chúa hài đồng vui lòng đây, mình nên dâng cái gì quí nhất đây để tỏ lòng yêu Chúa. Chắc mọi người nghĩ ra nhiều việc hay, tưởng tượng nhiều quà quí hiếm để tiến dâng. Nhưng câu chuyện sau đây muốn trình bày cho chúng ta thấy một món quà Chúa ưa thích nhất:
Số là đúng cái đêm Chúa sinh ra như đêm nay, các thú vật chung quanh Bêlem đều tới mừng Chúa và mỗi con đều dâng Chúa một món quà nhỏ: Chị bò cái dâng sữa, anh Lừa hà hơi sưởi ấm, cậu Khỉ biếu Chúa mấy trái nho, chú Sóc biểu diễn một điệu nhảy đẹp mắt, Bé Vàng khuyên hát một bài du dương, cậu Bướm tình nguyện làm đồ chơi. Chúa Hài đồng vui vẻ nhận tất cả. Đang lúc các thú vui thích quây quần bên Chúa thì chàng Cáo xuất hiện. Mọi thú đều ghét cáo vì nó gian manh xảo quyệt. Chúng chặn đường không cho Cáo đến gần Chúa. Thấy thế, Chúa can thiệp và ra hiệu cho Cáo vào. Cáo đến quỳ bên Chúa thì thầm nói với Chúa một hồi. Thấy Chúa thích thú đến độ đặt hai tay trên đầu cáo tỏ dấu ưng nhận và chúc lành. Riêng Cáo hớn hở, vui tươi lễ phép đứng lên cáo biệt rồi đi thẳng. Những con vật khác tức tối, tò mò hỏi Chúa Cáo đã dâng gì cho Ngài mà Ngài thích thú như vậy. Mỉm cười Chúa đáp:”Cáo đã dâng cái mà ta thích nhất: Đó là những tội lỗi của nó”.
Nghe thế ai mà chẳng bỡ ngỡ vì tưởng gì chứ tội lỗi ai mà chẳng có, lại có rất nhiều. Nhưng có lẽ ai cũng thắc mắc tại sao Chúa lại ưa cái thứ quỉ quái xấu xa đó? Có gì lạ đâu, cứ nhìn vào máng cỏ nghèo hèn, rồi nhìn vào thân phận yếu đuối của ta mà Chúa đã bỏ trời cao xuống trần mang lấy để gánh chịu mọi hậu quả của tội lỗi mà cứu thoát chúng ta. Vì khi ai biết cho Chúa mọi tội lỗi của mình thì người đó đã nhận ra sự hy sinh cao cả và tình yêu vô biên của Chúa.
Và rồi chúng ta tự hỏi cái gì trên cõi đời này làm cho con người phải điêu đứng khổ sở, phải lo lắng bối rối, phải ray rứt hối hận? Dĩ nhiên, tất cả bởi tội mà ra. Hơn nữa, khi Ngôi Hai xuống thế làm người là Ngài mong muốn chúng ta được an vui, hạnh phúc đích thực, nhưng chỉ còn một trở ngại ngăn cản cuối cùng là tội lỗi. Vì thế ai muốn có sự bình an thật thì phải dâng tội cho Chúa vì chỉ có Chúa mới tẩy xóa được chúng và giúp con người trở nên bạn hữu của Ngài.
Vậy khi dâng tội cho Chúa tức là chúng ta dâng trót cuộc đời còn lại của mình để cố gắng chừa cải ăn năn, để chỉ ước muốn làm điều đẹp lòng Chúa. Đổi lại, Chúa sẽ ban cho mỗi người chúng ta một tặng phẩm quí giá: Đó là sự anbình vui tươi của đêm thánh hôm nay đem lại cho mọi người thiện tâm thiện chí.[Mục Lục]
Trời vừa rạng sáng, sao vừa biến và người khách cuối cùng vừa từ giã, mẹ Maria xếp lại đống rơm và Hài nhi thiu ngủ… Bỗng, cánh cửa của chuồng bò kẹt mở. Một người đàn bà xuất hiện, áo rách rưới, da nhăn nheo đến độ khuôn mặt tóp lại trông dễ sợ. Thấy bà, Mẹ Maria sợ như thể một mụ phù thủy mang xui xẻo đến. May thay, Hài nhi thiếp ngủ, bò lừa đang nhai rơm yên lành. Còn Mẹ Maria không ngớt theo dõi. Mỗi bước chân của bà già đối với Mẹ Maria hình như dài cả thế kỷ. Bà ta vẫn tiếp tục bước và đã đến bên máng cỏ. Bất chợt Bé Giêsu mở mắt nhìn và mẹ Maria hết sức ngạc nhiên khi thấy đôi mắt Con Mẹ và đôi mắt của bà già sao mà giống nhau như thể ánh lên cùng một niềm hy vọng. Đoạn bà già thò bàn tay khẳng khiu vào bọc áo tồi tàn mò tìm một vật gì cất rất kỹ. Mẹ Maria vẫn lo lắng quan sát và các con vật vẫn thản nhiên. Cuối cùng, bà ta hình như đã tìm được và lôi ra khỏi bọc một vật dấu trong bàn tay, rồi trao lại cho Hài nhi. Không biết quà tặng là cái gì và bà già là ai mà có vẻ bí hiểm. Mẹ Maria chỉ thấy chiếc lưng còng cúi xuống khá lâu trên chiếc nôi. Rồi bà già đứng thẳng dậy như trút được một gánh nặng trên hai vai, khuôn mặt rạng rỡ như tìm lại được vẻ trẻ trung cách kỳ diệu. Sau đó, bà ta từ từ rời khỏi nơi Hài nhi và biến mất vào đêm tối. Bây giờ mẹ Maria mới thấy được món quà tặng của bà già và biết rõ bà ta là ai. Thì ra, bà già ấy chính là Eva vừa trao lại cho Hài nhi một trái táo nhỏ. Trái táo của tội nguyên tổ. Và trái táo đó rạng ngời trong đôi tay xinh xắn của Hài nhi như một quả địa cầu của thế giới vừa mới được tái tạo nhờ Hài nhi.
Vậy có thể nói rằng ngay từ khi Ngôi Lời đã hóa thành nhục thể đến ở giữa trần gian thì tất cả mọi tạo vật, kể cả tội nguyên tổ, đều được biến đổi, thăng hoa, ẩn chứa hồng ân cứu độ, phản ảnh tình thương của Thiên Chúa. Đặc biệt, đối với con người nhờ việc Ngôi Hai mặc lấy bản tính của họ nên họ được vinh dự lớn lao là trở thành tạo vật mới đầu tiên ở trong Chúa hài đồng.
Tuy nhiên, bất cứ một cuộc biến đổi nào muốn đi tới thành công mỹ mãn đều phải trải qua ba giai đoạn then chốt này: Một là xác định rõ hướng đi; hai là hợp tác chặt chẽ; ba là kiên trì theo đuổi đến cùng. Nhất là cuộc biến đổi hóa thần từ một bản tính yếu đuối tội lỗi thành một bản tính thần thiêng cao vời lại càng đòi buộc con người nhiều hơn nữa nếu con người muốn hóa thần thành công.
Thứ nhất là hướng đi. Đã là con người ai cũng cảm thấy thân phận mình thật mỏng dòn, yếu đuối, hay hướng chiều theo đam mê sa đọa, lúc nào cũng cảm thấy ray rứt bất an, luôn khao khát tìm kiếm mà không bao giờ được thỏa mãn. Tất cả những biểu hiện đó là do tội nguyên tổ gây ra, khiến con người cứ chìm đắm trong bến mê, thất vọng. Khi phải sống trong một tình trạng khốn khổ đó mà có ai đủ khả năng giải thoát con người khỏi bóng tối đến với ánh sáng, từ bị luận phạt giam tù đến chỗ tự do, từ đau khổ đến bến bờ hạnh phúc, chắc chắn người ta không bao giờ để tuột mất cơ hội ngàn vàng. Đó là Ngôi Hai giáng trần, một hướng đạo tài năng, một ánh sao lạ dẫn đường chỉ lối cho nhân loại được cứu thoát.
Thứ hai là hợp tác. Khi đã xác định được hướng đi mà muốn thành công, hai bên phải biết hợp tác để cùng hành động và hỗ trợ cho nhau. Về phía Chúa, nguyên việc xuống thế, mặc lấy thân phận hư hèn của con người cũng đã đủ để nói lên tình thương và thiện ý của Ngài là muốn cứu thoát tất cả mọi người. Do đó, Ngài không từ chối bất cứ việc gì, ngoại trừ tội lỗi, để giúp con người đi tới hạnh phúc, nên Ngài đã không ngần ngại phó mạng sống và quyền năng của Ngài cho con người sử dụng. Còn về phía con người muốn đón nhận hồng ân cứu rỗi và hạnh phúc vĩnh cửu Chúa ban, đương nhiên phải biết hợp tác với Ngài bằng cách nhiệt tâm, tin tưởng, vâng theo những sự chỉ dẫn của Ngài. Nói khác đi, con người muốn được cứu thoát phải biết tiếp nhận Chúa như là bạn đường, như là khách quí mời vào trọ trong nhà mình để yêu mến, phục vụ Ngài tận tình chu đáo. Tất nhiên, khi có Chúa ở cùng, con người phải từ bỏ mình cùng với những xấu xa, coi ma quỷ như kẻ thù không đội trời chung…
Cuối cùng khi đã quyết chí lên đường theo Chúa để có thể đi đến cuối con đường của hạnh phúc đích thực được thì phải có lòng kiên trì bền vững luôn. Đây là một điều kiện then chốt vì con đường đến với Chúa và cùng đi với Ngài không phải là một con đường thoải mái, dễ dàng, nếu không có chí sắt đá, không có lòng kiên định thì khó mà đi trọn vẹn. Bởi vì, tin tưởng và chấp nhận đi theo Chúa không phải một vài lần là được mà phải chấp nhận suốt đời và cũng không phải lúc nào đời người đều bình yên lặng gió mà là luôn có trở ngại thử thách đủ thứ. Vì thế, chỉ có những ai bám chặt vào Chúa thì kẻ đó mới đến đích bình an.
Chúa vì thương con người đã làm một cuộc đổi đời kỳ lạ từ trời xuống đất, từ Chúa thành người để cứu vớt và đưa con người lên hàng thần thánh. Còn con người muốn được hóa thần phải biết đổi đời từ tối thành ánh sáng, từ hư hèn thành bất diệt.[Mục Lục]
Trong đêm Giáng sinh, sứ thần Chúa đã hát vang trên cánh đồng Bêlem:
– Vinh danh Thiên Chúa trên trời,
Bình an dưới thế cho người thiện tâm.
Vào buổi sáng ngày Chúa nhật Phục sinh, Chúa Giêsu đã hiện ra và chào chúc các môn đệ:
– Bình an cho các con.
Ngài cũng đã xác quyết:
– Thầy ban bình an của Thầy cho các con.
Vậy sự bình an mà Chúa trao ban cho chúng ta là sự bình an như thế nào?
Trước hết đó phải là sự bình an trong tâm hồn qua việc giải thoát chúng ta khỏ sự kìm kẹp của tội lỗi, giao hòa chúng ta với Chúa. Thực vậy, sự bình an bên ngoài chỉ có thể được xuất phát từ bên trong, từ tâm hồn, từ cõi lòng mà thôi. Bao lâu chúng ta còn sống trong tội lỗi, trong sự thù địch với Chúa, thì chúng ta còn băn khoăn, còn lo lắng, Chính sự bình an nội tâm này sẽ phản chiếu trên khuôn mặt và trên cuộc sống, làm cho chúng ta được vui mừng và hạnh phúc, dù hiện tại có gặp phải những túng cực và khổ đau. Chính trong chiều hướng ấy, Chúa Giêsu đã phán hứa:
– Phúc cho những ai xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa.
Cũng trong chiều hướng này, Ngài đã xuống thế làm người để cứu chuộc chúng ta. Ngài đã giải thoát chúng ta khỏi sự kìm kẹp của tội lỗi. Ngài đã bắc lại nhịp cầu đa gẫy, nối liền trời với đất. Ngài đã hòa giải chúng ta với Thiên Chúa. Ngài đã trả lại cho chúng ta địa vị làm con cái Chúa.
Tuy nhiên, sự bình an nội tâm không phải là một quà tặng từ trời rơi xuống, mà hơn thế nữa, nó còn phải là kết quả của những cố gắng cộng tác với ơn thánh, những nỗ lực tìm kiến và xây dựng nơi chính bản thân mình, bởi vì sự bình an chỉ có cho những người thiện tâm mà thôi.
Sự bình an nội tâm này còn là nền tảng để chúng ta vun trồng một cách tốt đẹp những mối liên hệ với người chung quanh từ gia đình đến xã hội.
Trước hết là gia đình.
Như chúng đã biết gia đình ngày nay đang lâm vào một cuộc khủng hoảng trầm trọng. Nó như một cây đã bị cắt mất rễ, thì làm sao sống nổi. Gia đình là trái tim nhân loại. Nếu trái tim này mà bị đau yếu, thì làm sao nhân loại được khỏe mạnh. Gia đình phải là sợi dây liên kết đầy yêu thương, phải là nơi cho sự bình an ngự trị, bằng cách quên đi va tha thứ, nhường nhịn và chịu đựng lẫn nhau theo tinh thần Phúc Âm.
Một khi tâm hồn chúng ta đã ổn định qua việc hòa giải với Chúa, thì chắc chắn gia đình chúng ta cũng sẽ được êm ấm qua việc yêu thương nhau. Lúc đó sự bình an sẽ chiếu sáng qua mọi biên giới.
Và như vậy chúng ta đã bước vào lãnh vực xã hội.
Các cụ ta ngày xưa đã bảo:
– Phải tu thân, tề gia, rồi sau đó mới trị quốc và bình thiên hạ.
Cũng trong chiều hướng áy, Đức Hồng Y Feltin đã nói:
– Đây là lúc người tín hữu phải rời bỏ tháp chuông, phải rời bỏ quốc gia nhỏ bé của mình để hướng tới cộng đồng thế giới, bởi vì tất cả đều là anh em với nhau, cùng có chung một người cha và cùng được dựng nên theo hình ảnh Ngài. Như thế, mọi cuộc chiến tranh đều là những cuộc huynh đệ tương tàn, anh em sát hại lẫn nhau và làm cho máu Đức Kitô phải đổ ra một lần nữa, vì chúng ta đều là những chi thể của Ngài.
Thế nhưng ngày nay, viễn ảnh một cuộc chiến tranh thẳm khốc với những vũ khí tốt tân là như một cơn mộng dữ, luôn ám ảnh và đè nặng trên con người, cùng với nó là những sự tàn phá khủng khiếp nhất. Những phương tiện tự nhiên như hòa đàm, thương nghị mà thôi chưa đủ, chúng ta còn phải cần đến những phương tiện siêu nhiên, đó là sụ cầu nguyện và một cuộc sống được đổi mới theo tinh thần của Chúa.
Có một thi sĩ đã kể lị giấc mơ của mình như sau:
Bấy giờ Thiên Chúa ngự trên tòa và những người quyền thế nhất trần gian bắt đầu xuất hiện. Ngài hỏi Maisen:
– Con đã trao cho dân chúng những gì?
– Lạy Chúa, con trao cho họ những giới luật.
– Và họ đã làm chi?
– Họ đã phạm tội.
Ngài hỏi Napoléon, vị vua bách chiến bách thắng:
– Ngươi đem lại cho dân chúng những gì?
– Lạy Chúa, con đem lại cho họ vinh quang.
– Và họ đã làm chi?
– Họ đã bị tủi nhục.
Sau cùng, Ngài hỏi Đức Kitô:
– Con mang đến cho trần gian những gì?
– Con đã mang đến sự bình an.
– Và họ đã làm chi?
Đức Kitô không trả lời. Ngài úp mặt vào lòng bàn tay bị mang dấu đanh và Ngài đã khóc.
Đó là một giấc mơ, nói lên một sự thật. Ngày nay hơn bao giờ hết, Chúa Giêsu cũng khóc và giơ hai bàn tay mang những dấu đanh cho chúng ta chiêm ngưỡng, là như dấu ấn của sự hòa bình mà Ngài đã kiến tạo, đã xây dựng.
Hãy trở nên những chiến sĩ hòa bình, khởi đi từ tâm hồn bằng cách tẩy trừ tội lỗi, cho đến gia đình bằng một cuộc sống yêu thương và tha thứ, để rồi lan rộng ra ngoài xã hội, bằng sự hòa giải và cảm thông, để ở mọi nơi và trong mọi lúc, con người luôn được hưởng sự bình an mà Chúa Hài nhi đã đem đến nơi máng cỏ Bêlem.[Mục Lục]
Chúng ta vừa nghe thánh Luca thuật lại cuộc giáng sinh của Chúa Giêsu, chúng ta hãy nhìn vào hang đá thì sẽ thấy được sự khó nghèo của Con Thiên Chúa giáng trần làm người: chỉ có một vài mục đồng đến viếng thăm, và một vài con lừa hà hơi sưởi ấm cho hài nhi Giêsu, tất cả chỉ có thế, nghèo nàn khổ cực hơn cả người cùng cực thế gian, nhưng đó chính là niềm vui của các tâm hồn thiện chí và là sự cứu độ của toàn thể nhân loại.
Đêm nay, chúng ta hân hoan long trọng mừng Đấng Cứu Độ của chúng ta là Chúa Giêsu đã giáng trần, đó là một tin vui trọng đại, tin vui cho muôn người, tin vui này được các sứ thần của Thiên Chúa loan báo cho các mục đồng: “Anh em đừng sợ. Này tôi loan báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng sẽ là niềm vui cho toàn dân: Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành Đa-vít. Người là Đấng Kitô, là Đức Chúa”.(Lc 2, 10-11)
Đêm nay được gọi là “Đêm Thánh” vì Con Thiên Chúa là Đấng Thánh đã giáng trần cứu độ nhân loại khỏi tội lỗi; đêm nay cũng được gọi là “Đêm Bình An” vì chính sự giáng trần của Con Thiên Chúa là sự bình an cho mọi tâm hồn thiện chí biết xây dựng hòa bình cho anh em.
Vinh danh Thiên Chúa trên trời
Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương.
Lời ca khen hát mừng của các sứ thần trong ngày Chúa Giêsu giáng sinh vẫn còn đó, vang lên trong mọi tâm hồn của người tín hữu, và biến thành lời ca vang chúc bình an trên môi miệng của chúng ta với ước mong rằng, tất cả mọi người đều làm sáng danh Thiên Chúa và đem bình an cho tha nhân trong cuộc sống của mình.
Vinh danh Thiên Chúa trên trời
Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương.
Lời ca chúc mừng này biến chúng ta trở thành những mục đồng đi đến thăm viếng Chúa Giêsu khó nghèo nơi các trại mồ côi, an ủi những người bị tù ngục và những tâm hồn đau khổ vì bị bạc đãi trong xã hội này.
Đêm nay, ngoài đường vắng bóng người mặc áo quần lụa là, vì họ đang quây quần vui vẻ nâng ly rượu với bạn bè trong những nhà hàng sang trọng; nhưng đây đó dưới gầm cầu, bên góc xó hàng hiên của ngôi nhà to lớn bên đường có những em bé Giêsu đang nằm co ro vì lạnh vì đói và không nhà để trở về vì không có hộ khẩu…
Chúa Giêsu đã giáng trần cách đây hơn hai ngàn năm, và hôm nay, mỗi ngày Ngài đều giáng trần trong tâm hồn của chúng ta, để qua chúng ta, Ngài được an ủi nơi những người bất hạnh, như sứ điệp hòa bình mà các thiên thần đã loan báo: Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương.
Sứ điệp này đang ở trước mặt anh chị em, trong hang đá lộng lẫy ánh đèn nhấp nháy sáng lóe tia hy vọng, như mời gọi chúng ta hãy tỏa sáng lên tình yêu của Thiên Chúa trong cuộc sống của mỗi người, bởi vì Con Thiên Chúa giáng trần không phải như ánh sao xẹt ngang bầu trời rồi tắt ngúm, nhưng là “ánh sao sáng vĩnh cửu” đầy hy vọng soi sáng tâm hồn người thất vọng, chiếu sáng người đang ở trong bóng đêm tội lỗi thấy đường để quay về với sự thiện vốn có của mình…
Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta.[Mục Lục]
Ngôi Lời đã làm người và cư ngụ giữa chúng ta, đó là lời rao giảng đầy xác tín của thánh Gioan tông đồ mà chúng ta vừa nghe trong bài tin mừng hôm nay.
Ngôi Lời ấy chính là Chúa Giêsu Kitô, Đấng mà tối hôm qua chúng ta long trọng, hân hoan và phấn khởi mừng kỷ niệm ngày Ngài giáng trần và ở giữa chúng ta, nhưng với đức tin Kitô giáo, chúng ta đi xa hơn nữa để nhìn thấy và chiêm ngắm Đấng vì Yêu mà trở thành xác phàm như chúng ta.
- Chiêm ngắm Ngôi Lời trong hang đá
Không ai thấy được Thiên Chúa cũng như không ai được đưa tay đụng chạm đến Ngài, nhưng nhờ Ngôi Lời mà chúng ta biết được Thiên Chúa Cha là Đấng đã yêu thương nhân loại là dường nào.
Hôm nay chúng ta chiêm ngắm em bé Giêsu nhỏ xíu đang nằm trong hang đá, em bé Giêsu tội nghiệp ấy chính là hình ảnh của Thiên Chúa Cha là Đấng vô hình, và là hình ảnh tuyệt đẹp của con người hữu hình. Trẻ Giêsu đang nằm đó, chúng ta nhìn và suy nghĩ đến hang đá Bêlem xưa kia, trời lạnh cực điểm mà không có mảnh chiếu che thân, chúng ta tội nghiệp cho Mẹ Maria và thánh cả Giuse là một gia đình nghèo đáng thương hại.
Đấng tạo dựng đất trời đang nằm trong hang đá đó chính là Đấng mà muôn dân trông đợi, Ngài đã đến nhưng người nhà không chấp nhận, xua đuổi Ngài ra nơi chuồng bò, và chỉ có những người vô danh tiểu tốt đến thờ lạy Ngài là vua vũ trụ…
- Chiêm ngắm Ngôi Lời nơi Thánh Thể
Ngôi Lời là Thiên Chúa mà chúng ta đang ngắm nơi hang đá được trang hoàng lộng lẫy đẹp mắt ấy, chút xíu nữa đây trên bàn thờ, trong hình bánh rượu sẽ trở thành Bánh Thánh Máu Thánh nuôi sống linh hồn chúng ta.
Một Thiên Chúa làm người nằm trong hang đá Bêlem cũng là Thiên Chúa đang ngự trên bàn thờ nơi bí tích Thánh Thể, đã trở thành tình yêu dâng hiến và chia sẻ: dâng hiến chức phận Thiên Chúa và chia sẻ thân phận làm người với nhân loại tội lỗi…
Chiêm ngắm Chúa Giêsu Thánh Thể để nhìn thấy được tình yêu không bến bờ mà Ngài đã dành cho chúng ta, trong suốt cuộc sống của Ngài ở trần gian và sau khi về trời, chính tình yêu ấy đã làm cho gia đình hòa thuận yêu thương, chính tình yêu ấy đã làm cho xa hội phát triễn trong hòa bình, chính tình yêu ấy là mẫu gương đại đồng nhân loại sống hợp tác và tương trợ lẫn nhau…
Chúa Giêsu vẫn cứ khiêm tốn và nghèo mãi nơi hang đá Bêlem cũng như nơi bí tích Thánh Thể, không có hang đá Bêlem nghèo nàn thì cũng không có đồi Calvê trơ trọi thê lương, nhưng chính cái nghèo khó và thê lương ấy đã trở nên nguồn sống cho những ai tin vào Ngài nơi bí tích Thánh Thể, đó chính là mầu nhiệm mà hôm nay chúng ta mừng kính: mầu nhiệm Ngôi Hai Thiên Chúa làm người và mầu nhiệm Ngôi Hai cứu chuộc…
- Ngắm Chúa Giêsu nơi tha nhân
Mừng lễ Chúa Giêsu giáng sinh là mừng tình yêu cứu độ của Thiên Chúa dành cho nhân loại qua Con Một của Ngài là Chúa Giêsu, ngắm nhìn Hài Nhi trong hang đá chúng ta nhớ đến những em bé nghèo khó trên khắp thế giới sống trong cảnh khó nghèo; chúng ta cũng nhớ đến những người phải lìa xa quê hương ruột thịt để lánh nạn chiến tranh cường hào ác bá; chúng ta cũng suy nghĩ đến biết bao Giêsu đang bị bạc đãi trên khắp thế giới vì chính kiến, vì hận thù và vì đức tin…
Ngắm nhìn Chúa Giêsu nơi tha nhân là cốt lõi của tình yêu và giáo huấn của Ngài để lại cho nhân loại -qua Giáo Hội- bởi vì chúng ta không thể sống mầu nhiệm tình yêu bằng cách thờ ơ với tha nhân, và chúng ta cũng không thể trở nên một chứng nhân cho tình yêu nếu tâm hồn chúng ta vắng bóng Chúa Giêsu Thánh Thể.
Lễ giáng sinh rồi cũng qua đi nhưng ơn cứu độ vẫn tồn tại cho đến tận thế; hang đá lộng lẫy rồi cũng được cất vào kho nhưng những người nghèo khó bất hạnh vẫn còn đó, trước mắt chúng ta, đó là một thực tại không thể làm ngơ, là người Kitô hữu chúng ta phải làm gì để Chúa Giêsu tiếp tục mỗi ngày sinh ra trong tâm hồn những con người bất hạnh ấy, đó chính là sứ điệp giáng sinh của mỗi người trong chúng ta.
Câu hỏi gợi ý:
– Bạn có thói quen tặng thiệp, quà Noel cho người nghèo không?
– Mỗi lần Noel đến, bạn có nghĩ rằng bạn sống tốt thêm Noel năm ngoái không?
– Mỗi lần tặng thiệp, quà Noel cho bạn bè, bạn có nghĩ rằng mình là một thiên thần đem tin vui cho mọi người không?
Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta.[Mục Lục]
Có một bài ca Giáng Sinh bất hủ mà mỗi độ Giáng Sinh về chúng ta đều nghe vọng lại cách thân thương quen thuộc: Bài Đêm Thánh Vô Cùng. (Silent night, Holy night). Vâng Đêm nay quả thật là Đêm Thánh. Bởi vì đêm nay, hầu như tất cả mọi người, không phân biệt già trẻ lớn bé, tín ngưỡng hay vô thần, tin Chúa hay tin Phật…đều đỗ nhau ra đường, tuôn đến các Thánh đường, các tụ điểm sinh hoạt văn hoá, để chung một niềm vui: Vui Noel, để rạo rực một tâm tình: tâm tình Giáng Sinh.
Nhưng nếu lễ Noel chỉ đem lại cho mỗi người chúng ta chỉ một niềm vui thoáng qua, một hạnh phúc chóng tàn, như cái bóng hạnh phúc ảo ảnh trong ánh lửa của cô bé bán diêm trong câu chuyện “Cô bé bán diêm” của văn hào Andecxen, để rồi sau đó, đêm Noel qua đi, những bài ca Giáng Sinh ngừng lại, ánh sáng của sao lạ, hang đá máng cỏ vụt tắt, rồi tất cả lại quay về với một đời thường tăm tối, đắng cay, thất vọng, khổ sầu…thì việc đón mừng Giáng Sinh của chúng ta chẳng khác nào tiếp đón một người khách xa lạ, khách đi rồi mà chẳng để lại nơi tâm hồn ta, nơi mái nhà ta, nơi cuộc sống ta một dư âm nào, một kỷ niệm nào, và nhất là, một chuyển biến nội tâm nào.
Không, trong phút giây đặc biệt nầy, tôi xin mời gọi ông bà và anh chị em hãy cùng tôi khám phá những ý nghĩa sâu xa của mầu nhiệm Giáng Sinh, để niềm vui đêm nay, ánh sáng đêm nay, âm thanh đêm nay, không chỉ loé sáng lên để rồi vụt tắt lịm như những que diêm của Cô bé bán diêm xấu số cùng với cái chết thương tâm của cô giữa trời tuyết lạnh; nhưng phải được nối dài, phải được vang vọng trên mọi nẽo đường cuộc sống của chúng ta.
- GIÁNG SINH: MỘT MẦU NHIỆM ĐẾN TỪ THIÊN CHÚA
Thiên Chúa làm người: Phải chăng đây là một khẳng định táo bạo, một sự lừa bịp, một tuyên truyền láo khoét? Không, với mỗi người Kitô hữu chúng ta, “Thiên Chúa làm người” đó là một xác tín cơ bản, một niềm tin căn cốt đã ăn sâu trong hồn, đã thuộc lòng trên môi miệng và đã được cử hành, nhắc nhớ trên từng cây số của cuộc sống. Chân lý nầy lại được một lần nữa long trọng cử hành trong chính đêm nay, được tuyên xưng trong Kinh Tin Kính của Thánh lễ nầy “ Vì loài người chúng tôi, và để cứu rỗi chúng tôi, Người đã từ trời xuống thế. Bởi phép Chúa Thánh Thần, Người đã nhập thể trong long Trinh Nữ Maria và đã làm người”.
Nhưng với những người không chia sẻ cùng một niềm tin với chúng ta, thì quả thật “mầu nhiệm Thiên Chúa Làm Người” quả là một thách đố, nếu không nói là xa lạ và ảo tưởng. Điều nầy cũng đễ cảm thông thôi; vì, cách đây 2000 năm, cho dù được các Sứ ngôn tiên báo, cho dù được Sách Thánh thông tin xa gần, dân Do Thái vẫn không hề chấp nhận được “Một Đấng Cứu Thế” sinh ra trong hang lừa máng cỏ, một Đấng Emmanuel con của gia đình Bác Thợ Mộc Giuse và Bà Maria ở làng quê Nadarét. Với tâm thức chung của họ lúc bấy giờ, và cũng là tâm thức của nhiều người trong nhân loại hôm nay, Thiên Chúa phải là một “Ông Trời” toàn năng trên các tầng mây, một Thượng Đế uy nghi lẫm liệt trên cõi vĩnh hằng; nếu Ngài có “hạ cố làm người”, thì cũng phải làm người trong cung cách của một vị đế vương oai hùng lẫm lẫm nơi gác tía lầu son, nơi cung đình tráng lệ, chứ làm gì có một “Ông Trời sinh ra trong thân phận của một Em Bé khóc oa oa vấn tả nằm trong máng chiên lừa bao quanh chỉ có mấy chú mục đồng khổ nghèo kiết xác. Cũng vì quan niệm như thế mà địa chỉ đầu tiên Ba Nhà Đạo Sĩ Phương đông tìm đến để kiếm tìm Đấng Cứu thế là Thủ đô Giêruxalem nơi cung điện của đại vương Hêrôđê. Nhưng nơi đó làm gì có Đấng Cứu thế giáng sinh. May mắn, nhờ “Sao Lạ dẫn đường, các Đạo sĩ đã tìm gặp Đấng Emmanuel nơi hang lừa máng cỏ ngoài đồng vắng Bêlem, trong thân phận của một em bé nghèo hèn yếu đuối. Vâng, nếu không có “Anh sao lạ”, nếu không có “thiên thần hiện ra loan báo Tin vui”, nghĩa là, nếu không có sự “mặc khải”, sự dẫn đưa của Thiên Chúa, thì loài người chúng ta không ai có thể khám phá, nhận biết được mầu nhiệm Thiên Chúa làm người. Chúng ta sẽ mãi mãi ngủ vùi trong một giấc ngủ triền miên của sự lầm lạc, cách xa và mù tối về sự hiện diện của Thiên Chúa làm người. Thật cần thiết biết bao “ánh sao mặc khải của Thiên Chúa”.
- GIÁNG SINH: VÌ YÊU THIÊN CHÚA CHIA SẺ PHẬN NGƯỜI.
Nhưng làm sao Thiên Chúa lại phải làm người, và làm người trong thân phận nghèo nàn, tăm tối, thấp hèn?
Để hiểu phần nào chân lý nầy, chúng ta có thể mượn câu ca dao của Việt Nam:
“Yêu nhau trăm sự chẳng nề,
Một trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng”.
Một trăm chỗ lệch: Giữa chúng ta, giữa con người với Thiên Chúa không phải chỉ có “một trăm chỗ lệch” nhưng là cách xa muôn trùng. Bởi vì Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng, toàn thiện, toàn mỹ, còn chúng ta chỉ là thân phận tạo vật do bàn tay Người tác tạo. Sự cách biệt đó càng lớn, càng sâu, càng cách xa vời vợi khi con người phản bội, chối từ Ngài, mà Lời Chúa trong Sách Sáng Thế đã nói với chúng ta qua câu chuyện “bi kịch ăn trái cấm nơi vườn địa đàng”.
Tuy nhiên, Thiên Chúa cao xa quyền năng đó, lại là một “Thiên Chúa nhân từ” và giàu lòng thương xót, một Thiên Chúa luôn nhớ lại lòng khoan dung. Chính vì tình yêu bao la đó, mà Thiên Chúa đã không đành bỏ mặc con người trong khoảng cách xa vời vợi, trong thân phận mồ côi lạnh lùng, trong sự lạc loài cách biệt. Thánh sử Gioan đã nói: “Thiên Chúa đã yêu thương con người đến đổi đã ban Con Một xuống trần…” (Ga 3,16).
Thiên Chúa làm người để con người được ơn cứu rỗi, hay như lời một Giáo Phụ: “Thiên Chúa làm người để con người được làm Chúa”. Nói cách khác: Thiên Chúa muốn nâng con người lên, đem con người vào vị trí cao cả mà ngay từ đầu Thiên Chúa đã muốn tác tạo: đó là giống hình ảnh Người. Đúng là “một trăm chỗ lệch…”
Vâng, chúng ta chỉ hiểu được, chỉ chấp nhận được mầu nhiệm Giáng Sinh nầy trong chiều kích TÌNH YÊU, trong ý nghĩa tình yêu.
– Giáng sinh: đó là tình yêu của Thiên Chúa
– Giáng sinh: đó là tình yêu của Thiên Chúa hiện thực trong lịch sử con người.
– Giáng sinh: đó là tình yêu của Thiên Chúa được thể hiện cách trọn vẹn và hết mình. Cho nên, mừng mầu nhiệm Giáng Sinh chúng ta mừng hai ý nghĩa, hai tác động có liên quan mật thiết:
– Thiên Chúa làm người và con người được nâng lên
– Là ngày “chúng ta tái diễn cuộc vào đời của Thiên Chúa “, là dịp chúng ta ý thức “Hồng ân vĩ đại, cao cả của mỗi người chúng ta vì chúng ta được mời gọi làm con Thiên Chúa, được chia sẻ vinh quang thần linh của Thiên Chúa.
III. GIÁNG SINH: THIÊN CHÚA DẪN LỐI ĐƯA ĐƯỜNG
Nhưng khẳng định trên, chân lý trên, có ích gì cho xã hội hôm nay, cho mỗi người chúng ta hôm nay? Vâng, đã hơn 2000 năm rồi, Thiên Chúa đã làm người, đã cứu chuộc chúng ta bằng chính cái chết và sự sống lại của Ngài, bằng chính Giáo Hội mà Ngài thiết lập để qui tụ nhân loại và ban ơn cứu độ là chính Thánh Thần của Thiên Chúa…thì thế giới vẫn còn nguyên đó với chiến tranh đầu rơi máu đỗ, với chết chóc hận thù, với bịnh tật khổ đau…Để hiểu tại sao như thế, chúng ta phải trở về với chính những Lời Chân Lý được công bố hôm nay:
Bài đọc 1, trích sách Sứ ngôn I-sa-ia đã vang vọng những lời tuyệt đẹp: “Đoàn người bước đi trong tăm tối, đã nhìn thấy ánh sáng bao la, ánh sáng bừng lên trên những miền âm u sự chết…vì một Hài nhi đã sinh ra cho chúng ta, một Người con đã được ban tặng cho chúng ta”
Trong khi đó, bài Tin mừng Luca, với giọng văn lịch sử mang phong cách Hy lạp, tác giả Luca đã làm bật nổi biến cố Giáng Sinh với những lời và bối cảnh thật ấn tượng: “Trong vùng ấy có những người chăn chiên sống ngoài đồng…bổng sứ thần Chúa trong vinh quang sáng láng hiên ra loan báo rằng: “Anh em đừng sợ. Nầy tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là niềm vui cho toàn dân: là hôm nay, trong thành vua Đa-vít, Đấng Cưứ thế đã giáng sinh…”
Vâng, giữa cảnh nô lệ, lưu đày nước mất nhà tan khi đế quốc Assur thôn tính Ít-ra-en vào khoảng 700 năm trước Công Nguyên, vị tiên tri thi sĩ I-sa-ia đã tiên báo “ một Đấng Emmanuen sẽ được một Trinh nữ sinh ra”… và 700 năm sau, trong buổi bình minh của thiên niên kỷ đầu tiên của công nguyên, cũng lại là một đất nước Ít-ra-en tan nát dưới quyền đô hộ của Rôma, sứ thần đã loan Tin Mừng vĩ đại cho các mục đồng ở Bê-lem: “Đấng Cứu thế đã giáng sinh”.
Với những lời tiên báo đó, với những sứ điệp vui mừng và hy vọng về một Đấng Cứu thế ra đời đó, quả thật loài người đã có được những gì, đã chứng kiến được, đã cảm nhận thật sự điều gì đã xảy ra? Có hay không Một Đấng Cứu thế như lòng họ hằng mơ ước? Có hay chăng một Vị Vua oai hùng lẫm liệt đăng quang trở về chấp chính để an bang tế thế? Có hay chăng một Đấng Cứu tinh mang lại no cơm ấm áo, đất đai biên giới mở rộng thênh thang, quyền uy chính trị trãi trên ngàn dân nước?
Không! Hoàn toàn trái ngược hẳn:
– Thay vì một hoàng tử sinh ra trong gác tía lầu son, Đâng Cứu Thế lại là một em bé sinh ra trong hang lừa máng cỏ.
– Thay vì một Đế vương chấp chính oai phong trên ngai vàng lẫm liệt, Đấng Cứu Thế lại được Chúa Cha giới thiệu với loài người đang khi chen lẫn giữa đám dân đen tụ tập cùng nhau sám hối bên bờ sông Gio-đan.
– Thay vì công bố giữa triều đình oai nghi những đề cương kinh tế chính trị xã hội bài bản, Đấng Cứu thế lại rao giảng một Tin Mừng “Tám Mối Phúc Thật” chỉ thích hợp cho những kẻ nghèo khổ bất hạnh.
– Thay vì chinh phạt với vó ngựa, gưom đao để mở rộng cõi bờ, sát phạt muôn dân, Đấng Cứu thế lại chấp nhận một bản án bất công và chịu tử hình Thập Giá, một cái chết dành riêng cho hàng nô lệ…
Quả thật, sự xuất hiện và cuộc đời của Chúa Giêsu, Đấng Cứu thế mãi mãi là một thách đố để chúng ta tin nhận, là một huyền nhiệm để chúng ta đi tìm. Nếu hôm nay, chúng ta đến đây, chúng ta cử hành mầu nhiệm Giáng Sinh nầy, chúng ta tìm kiếm một “Ông Giêsu” chỉ với mục đích là được no cơm ấm áo, chỉ với một ước nguyện là được tiền tài danh vọng và những bảo đảm vật chất…thì có lẽ chúng ta sẽ ra về trong thất vọng. Bởi vì Tin Mừng Giáng Sinh, Chân lý của Đức Kitô, con đường nhân sinh của Kitô giáo không đề nghị cho chúng ta những giải pháp trần tục đó, những hứa hẹn vật chất chóng tàn đó. Bởi vì Đức Kitô và Tin Mừng của Ngài tuyệt đối không phải là một ý thức hệ, một chủ nghĩa, một học thuyết chính trị-kinh tế. Bởi vì Chúa Giêsu hôm qua, hôm nay và mãi mãi duy nhất là Đấng Cứu Độ, là Đấng, như lời kinh thánh “ trong Bài đọc 2 vừa được công bố hôm nay “đã tự hiến để cứu chuộc chúng ta cho thoát khỏi mọi điều bất chính, và để thanh luyện chúng ta khiến chúng ta thành dân riêng của Người, một dân hăng say làm việc thiện” (BĐ 2), là Đấng qui tụ nhân loại thành anh em trong gia đình Thiên Chúa để dẫn tất cả vượt qua kiếp sống trần gian tiến về hạnh phúc vĩnh hằng.
Cũng chính vì lẽ đó, “Hiến chương Nước Trời” được Ngài vạch ra như nẽo đường dẫn tới cõi phúc chân thật lại là những giá trị xem ra thật ngược đời, nhưng cũng thật anh hùng và đòi hỏi: Tinh thần khiêm hạ khó nghèo, hiền lành nhân ái, hy sinh để chia sẻ và cho đi, yêu thương để xây dựng hòa bình, không ngừng biết khoan dung để tha thứ…
Chính cuộc đời 33 năm trần thế của Ngài, cho dù không để lại một công trình kiến trúc vĩ đại, không một tác phẩm văn chương uyên bác, không một sáng chế khoa học diệu kỳ…thì 20 thế kỷ qua vẫn là cột trụ của nhân loại, là hy vọng của muôn thế hệ, là điểm tựa cho muôn ức triệu tâm hồn. Từ máng cỏ Bê-lem cho tới đỉnh đồi Núi Sọ, cuộc đời của Chúa Giêsu duy nhât chỉ là một định nghĩa đúng đắn nhất về tình yêu: Yêu là cho đi và cho đi đến cùng: Thiên Chúa trở nên nghèo hèn, tự hiến để con người được cứu độ vinh quang; Thiên Chúa chấp nhận làm “hạt lúa gieo vào trần gian mục nát”, để con người ngẩng cao đầu đứng lên tìm được hạnh phúc vĩnh hằng. Đó cũng chính là ý nghĩa cuối cùng của mầu nhiệm được cử hành hôm nay: mầu nhiệm Thiên Chúa làm người, mầu nhiệm Thiên Chúa ở cùng chúng ta, mầu nhiệm Nhập thể – Giáng Sinh.
Kết luận: Như vậy, chúng ta đón nhận và sống mầu nhiệm Giáng Sinh như thế nào đây cho đầy đũ ý nghĩa và mang giá trị hiện thực? Để thay cho câu trả lời tôi xin kể một câu chuyện nhỏ: “Tiệm tạp hóa bên kia ngọn đồi”
Khi ánh mặt trời vừa ló dạng, có một chàng thanh niên đứng đợi trước cửa hàng tạp hóa bên kia ngọn đồi. Chờ mãi mà cửa vẫn chưa mở. Sắp sửa định bỏ đi, thì bổng có tiêng mở cửa và một thiên thần xuất hiện:
– Anh cần gì? Tôi là chủ ở đây.
– Ở đây Ngài có bán hòa bình không?
– Tôi bán tất cả.
– Con muốn mua hòa bình đem vào nơi chiến tranh, mua an hòa đem vào nơi tranh chấp, mua chân lý đem vào chốn lỗi lầm…
– Còn mua gì nữa nào?
– Con muốn mua ánh sáng chiếu vào nơi tối tăm, mua niềm vui đem vào chốn u sầu…Con muôn mua tất cả những gì để thế giới không còn khủng bố, chiến tranh, bạo lực, hận thù, ghen ghét, để mọi người hít thở trong không khí trong lành, huynh đệ yêu thương…Vâng con muốn mua được những liều thuốc chữa được mọi bệnh tật, mọi người được no cơm ấm áo…
– Thiên thần từ tốn đáp: Nầy anh, ở đây không bán quả. Thượng Đế giao cho tôi chỉ bán hạt giống thôi…
Thưa ông bà và anh chị em. Sứ điệp Giáng Sinh hôm nay cũng là “Hạt Giống” Tin mừng được trao gởi cho mỗi người chúng ta. Hạt giống của Niềm vui và bình an, hạt giống của yêu thương và chia sẻ, hạt giống của hy sinh và tận hiến, hạt giống của tha thứ và khoan dung, hạt giống của huynh đệ và đoàn kết…Đó chính là những hạt giống mà Con Thiên Chúa đã trao tặng khi xuống thế làm người và muốn chúng ta sinh hoa kết trái. Ước gì niềm vui và ân sủng của Giáng Sinh năm nay sẽ ở lại nơi tâm hồn mỗi người chúng ta và biến đổi cuộc đời chúng ta thành nhứng chứng nhân của hòa bình và công lý, của bác ái yêu thương, của khoan dung tha thứ, của phục vụ quên mình. Và như thế, chiến tranh bạo lục, khủng bố hận thù, ghét ghen tranh chấp, đói khát nghèo nàn…sẽ bị đẩy lùi để nhường chõ cho một thế giới tốt đẹp hơn, anh bình hơn, vui tươi và hạnh phúc hơn như lời sấm của Sứ Ngôn I-sa-ia trong bài đọc thứ nhất hôm nay: “Bởi lẽ mọi chiếc giày đi lộp cộp của kẻ chiến thắng, mọi chiếc áo nhuộm thắm máu đào sẽ bị đốt đi làm mồi nuôi lửa. Vì Một Hài đã sinh ra cho chúng ta, một Người Con đã được ban tặng cho chúng ta”.
Giờ phút nầy, lời sấm ngôn đó không còn là một lời tiên báo nữa, vì chút nữa đây, chúng ta sẽ được chia sẻ chính thịt máu Ngài được ban tặng cho chúng ta. Chúng ta chỉ biết tri ân và cảm tạ, hân hoan và yêu mến. Amen.[Mục Lục]
Có một người đi hành hương đất thánh, khi trở về, ông ta đã mua một bộ tượng sinh nhật gồm Chúa Giêsu, Đức Mẹ và thánh Giuse. Thế nhưng, trước khi lên máy bay tại phi trường Tel Aviv, người ta đã kiểm soát từng bức tượng một, bằng quang tuyến X. Nhân viên hải quan đã xin lỗi và nói:
– Chúng tôi có nhiệm vụ bảo đảm rằng không hề có chất nổ trong những bức tượng này.
Lúc bấy giờ, ông khách hành hương đã thầm nghĩ:
– Phải chăng họ biết được rằng bộ tượng này còn chất chứa một năng lượng khả dĩ làm nổ tung cả thế giới. Vậy thì nguồn năng lượng ấy là như thế nào? Đó không phải là nguồn năng lượng vô biên của Thiên Chúa, Đấng đã tạo dựng nên vũ trụ vật chất này trong thoáng chốc và có thể hủy diệt nó bằng một cái búng tay. Năng lượng mà ông khách hành hương muốn nói tới, chính là năng lượng của Tình yêu mà Ngài đem theo khi đến với nhân loại trong đêm Sinh Nhật đầu tiên tại Bêlem.
Thực vậy, năng lượng ấy được gồm tóm trong Tin Mừng Giáng Sinh, trong sứ điệp mà Ngài muốn nhắn gửi chúng ta. Tin Mừng ấy, sứ điệp ấy như thế này:
– Thiên Chúa, mặc dầu là Đấng quyền năng vô song, nhưng đồng thời Ngài cũng là một người Cha đầy lòng nhân từ và khoan dung, Ngài đã yêu thương và chăm sóc đến mỗi người chúng ta… Và để giải thoát chúng ta khỏi sự kìm kẹp của tội lỗi, khỏi án phạt đời đời, Ngài đã sai chính Con Một Ngài xuống thế để ở cùng chúng ta và cứu độ chúng ta.
Tuy nhiên, để loan báo Tin Mừng ấy, để công bố sứ điệp ấy, Ngài đã không đến như một ông hoàng với cung điện lộng lẫy, với binh đội hùng mạnh, nhưng Ngài đã đến như một hài nhi bé bỏng và yếu đuối, con của một gia đình nghèo nàn và túng thiếu. Ngài đã trở nên một người giống như chúng ta, cũng bơ vơ lạc lõng, cũng vất vả mệt mỏi, cũng biết đau, biết đói, biết khát… Cũng đã bị nhạo cười và hất hủi, thậm chí còn phải chịu một cái chết ê chề và nhục nhã nhất.
Khi đến, Ngài đã không được các vua chúa, các vị lãnh đạo thế giới chào đón, mà chỉ được các mục đồng, những kẻ thuộc giai cấp thấp hèn nhất đến viếng thăm. Ngài đã đồng hóa mình với những người nghèo khổ và túng thiếu, thậm chí ngay cả với những kẻ tội lỗi.
Những điều trên đây khiến chúng ta nghĩ tới quyền năng mà Ngài đem vào thế giới này. Bởi vì tư tưởng và đường nẻo của Ngài không giống với tư tưởng và đường nẻo của chúng ta. Phải chăng đó chính là điểm đặc sắc, điểm thách đố mà mầu nhiệm Giáng Sinh đã gây nên. Sự thách đố này được diễn tả qua một bài thơ có nội dung như thế này:
– Khi ánh sao trên trời chợt tắt, khi các mục đồng và ba nhà đạo sĩ đã ra về, thì công cuộc Giáng Sinh mới thực sự bắt đầu: để tìm lại những gì đã mất, để hàn gắn những gì đã rạn vỡ, để dựng lại những gì đã gãy đổ. Người đói được ăn, kẻ khát được uống, tù nhân được giải phóng và hòa bình thực sự trở về với mọi người.
Kể từ đêm Giáng Sinh đầu tiên cho tới ngày hôm nay, trải dài hơn hai ngàn năm, sức mạnh tình yêu của Thiên Chúa được biểu lộ nơi hài nhi Giêsu, không ngừng làm nổ tung và biến đổi bộ mặt thế giới. Sức mạnh ấy đã san bằng mọi giai cấp. Sức mạnh ấy đã phá đổ mọi bất công. Sức mạnh ấy đã giành lại những quyền lợi cho đàn bà và trẻ em. Sức mạnh ấy đã hủy diệt mọi thù oán…Tuy nhiên điều quan trọng hơn cả, đó là sức mạnh tình yêu của mầu nhiệm Giáng Sinh đã tác động như thế nào đến bản thân và đến cuộc sống riên tư của mỗi người chúng ta?[Mục Lục]
Những tình tiết chung quanh sự việc Đức Giêsu Giáng Sinh là nguồn đề tài cho rất nhiều thiên khảo sát thông thái, là cảm hứng bất tận cho những suy niệm thiêng liêng và thi ca hướng thượng. Những nhà uyên bác muốn xem bản văn của thánh Luca như một thiên ký sự trong đó thực tế lịch sử được thích ứng với một mẫu tín ngưỡng dân gian bắt rễ ở những công thức kinh điển Cựu Ước. Sự suy–niệm thiêng liêng đã biết nhận ra trong ký sự ảnh hưởng của thuyết hiện thực lịch sử, vừa nhân bản vừa có tính chất thần linh, khi thuyết này được áp dụng, để khảo sát sự việc Thiên Chúa đến trong nhân loại. Dù sao, những công trình khảo cứu bác học và sự suy niệm thiêng liêng cũng gặp nhau ở điểm cùng xác nhận tính chất chắc chắn của những sự kiện sau đây: bà Maria và ông Giuse đã đến Bêlem, nơi đây Đức Giêsu Cứu Thế đã Giáng Sinh, cũng tại đây những kẻ đầu tiên đã tin vào sự loan báo lớn lao này.
Thánh Luca viết bản văn này khoảng thời gian rất lâu sau biến cố. Lúc ông soạn bộ Phúc âm mang tên ông thì sự kiện Phục sinh và Hiện xuống đã xảy ra rồi. Giáo Hội sơ khai đặt ra kinh nguyện theo sát kinh nghiệm thiêng liêng thu thập được. Có thể là Giáo Hội đã tuyển trong khối tài liệu phong phú về biến cố Giáng Sinh để lựa lấy những điều nào hợp với kinh nghiệm nhất: Vinh danh dâng lên Thiên Chúa và bình an được ban cho loài người dưới thế đã được thánh Luca trích ra để dùng từ một kinh nguyện phụng vụ, chính bản kinh này bắt nguồn ở mầu nhiệm tổng quát Giáng Sinh, Vượt qua và Hiện xuống. Ngày nay khi chúng ta mừng một biến cố xảy đến trong lịch sử Đức Giêsu, điều lợi ích cho ta là chớ lãng quên toàn bộ Mầu Nhiệm Đức Kitô, Con Chúa xuống thế làm người, để nhờ tác động của thần trí Người, Đức Kitô thực hiện trong Giáo Hội sứ mạng làm vinh danh Chúa Cha và cứu rỗi nhân loại anh em Người. Xin lấy một ví dụ thực tế để gợi ý. Lĩnh ơn hoà giải qua bí tích giải tội, và tham dự sốt sắng thánh lễ tạ ơn – đó là những nguồn vui thật sự vào dịp Giáng Sinh. Ngoài ra, thi vị hoá ngày lễ và nô nức mừng lễ, cả hai chỉ là bộ áo phủ ngoài. Chúng ta có thể dừng lại ở hai chủ đề suy niệm:
1) Thiên sứ được Chúa sai đến bảo cho những mục đồng biết: Ta loan báo cho anh em một niềm vui lớn, nó cũng sẽ là niềm vui chung cho toàn dân. Đây là một niềm vui đáp ứng một hy vọng. Từ bao thế kỷ; não trạng Israel được duy trì và bồi dưỡng bởi các ngôn sứ, dựa vào niềm trông đợi Đấng Cứu Thế sẽ đến. Niềm vui này cũng là niềm vui chung cho toàn dân, chỉ có thể xuất phát từ Đấng Cứu Thế. Sứ điệp thiên thần mang đến cho những ai có tâm hồn như trầm xuống trong niềm trông đợi Đức Kitô mà Thiên Chúa hứa ban cho trần thế. Điều này gợi ra một câu hỏi: trong tâm hồn ta, có dọn dẹp chuẩn bị một chỗ cho niềm vui được Thiên Chúa loan báo không? Chúng ta có những ước vọng nào? chúng hướng về đâu? Trong chúng ta có hay không một chỗ dành cho sự mong mỏi đợi chờ Chúng ngự đến để Người tác động mạnh hơn nữa? Thiên Chúa không thể loan báo cho chúng ta một niềm vui, nếu chúng ta không cần đến Người. Tuy nhiên, nếu nhờ đức tin mà chúng ta phát hiện và ngẫu nhiên cảm thấy điều sau: chỉ Thiên Chúa mới có thể ban phát tràn đầy ơn phúc cho chúng ta, thì ta phải hiểu rằng chính đức tin chuẩn bị chúng ta tiếp nhận những sự loan báo Tin Mừng.
2) Hôm nay một Đấng Cứu Thế được sinh ra cho anh em. Dù cam phận hay nổi loạn con người bị cưỡng bách phải nhận định điều này: đời sống cá nhân tiến dần đến cõi chết, đến chỗ tiêu tan bản thể. Cam phận hay nổi loạn, cả hai đều chứa đựng đau khổ. Đấng đem đến cho nhân loại phương thế hữu hiệu để vượt thắng chết và sự trầm luân, chúng ta tôn Người là Đấng Cứu Thế. Đấng Cứu Thế được các thiên thần loan báo không chỉ đến phải cứu con người khỏi định mệnh phải chết, mà còn ban cho con người sự sống của Thiên Chúa. Não trạng thời hiện đại hướng tới chỗ xui giục một số người nào đó đành chịu rơi vào cõi chết – và xô đẩy một số khác nổi loạn cuồng nộ. Là tín đồ của Chúa, ta hãy ý thức rằng ta cần được cứu rỗi. Hãy từ khước sự can tâm nhận lấy hư vô. Mặt khác ta hãy đến với Đấng Cứu Thế, trình bày một niềm riêng tư của mình, chứ đừng có vun tưới cho những sự nổi loạn vô ích và ngu dại. Hãy hiệp thông với hành động của Chúa Cứu Thế chúng ta.[Mục Lục]
Đêm Giáng Sinh, cả gia đình vui vẻ đi dự lễ, nhưng người chủ gia đình không đi. Ông nghĩ Giáng Sinh là một câu chuyện huyền thoại, Thượng Đế mà thành một người là điều vô lý.
Đêm đông lạnh giá, vợ con đều đi lễ, một mình ông ở nhà, ngồi nghe gió lạnh rít qua khe cửa. Bỗng có tiếng đập mạnh vào cửa sổ. Hé rèm nhìn ra, ông thấy những con chim sẻ đang lao đầu vào cửa kính. Ông không muốn mở cửa dù thấy tội nghiệp lũ chim, vì ông sợ mưa hắt vào nhà. Những con chim bay vô sẽ làm náo động. Ông nghĩ nếu chúng muốn tìm chỗ ấm áp, an toàn thì có thể vào kho lúa ở phòng kế. Ông mặc áo ấm và đi hé mở cửa kho lúa. Nhưng không có cách nào kêu bầy chim vô kho lúa được, dù ông ráng gọi và ra hiệu. Những con chim không hiểu ý ông. Chúng vẫn lao đầu vô vọng vào các khung cửa kính có ánh đèn. Ông tự nhủ: giá mình là một chim sẻ thì mình sẽ dẫn cả bầy chim tìm được nơi trú an toàn ấm áp.
Nghĩ tới đó, ông chợt hiểu ý nghĩa của lễ Giáng Sinh. Con người rất khó mà hiểu Thiên Chúa, cũng như những chim sẻ không hiểu ý ông. Vì thế Thiên Chúa mới cần trở thành một con người, cần nói tiếng con người, sống cuộc sống con người, dù Ngài vẫn là Thiên Chúa. Có như thế, những ý định, những bài học của Ngài mới được con người thông hiểu và lãnh hội. Dĩ nhiên, Thiên Chúa trở thành một người có lẽ còn khiêm hạ hơn việc con người trở thành một chim sẻ. Nhưng ý nghĩa thì cũng tương tự. Cần trở nên một con chim để lãnh đạo bầy chim! Cần phải có một người, cũng là Thiên Chúa, để dạy dỗ và đưa con người đến ơn cứu độ.
Bài học đầu tiên lễ Giáng Sinh dạy ta là bài học khiêm tốn. Thiên Chúa cao cả quyền uy. Trong Cựu Ước, mỗi lần Giavê xuất hiện là có sấm chớp, mây gió làm dân chúng kinh hãi giấu mặt. Còn bây giờ Thiên Chúa Giáng Sinh nơi trần gian, Ngài đã chọn một xóm làng bé nhỏ. Nhưng ngay ở xóm làng bé nhỏ đó, Ngài cũng không có chỗ ở, phải ra cánh đồng tạm trú trong một hang đá. Mẹ Maria sinh Chúa, lấy tã bọc con và đặt nằm vào máng cỏ.
Người ta mong chờ Đấng Cứu Thế từ bao năm. Nhưng ai cũng nghĩ tới một Chúa Cứu Thế quyền uy, giàu có và mạnh mẽ! Còn đây Chúa tới như một em bé, hèn, yếu, chẳng ai biết tới và đón chào. Đường lối Thiên Chúa bao giờ cũng bí nhiệm, xem như nghịch lý, khó hiểu, ngay cả những người đạo hạnh cũng khó nhận ra.
Thiên thần Chúa đã đến với các mục đồng, những người nghèo, và ánh vinh quang Thiên Chúa bao phủ họ, ánh quang tỏa sáng, đó là dấu hiệu Thiên Chúa hiện diện. Hào quang Thiên Chúa thường xuất hiện nơi đền thánh. Từ đây, ánh quang đó che phủ những người nghèo. Chúa tự nhận mình vào số những người nghèo khó: “Việc gì các con làm cho một người nhỏ bé nhất, là các con làm cho Ta”.
Thiên thần loan báo một “Tin Vui”, một tin vui cho toàn dân. Đó là Chúa Cứu Thế đã Giáng Sinh, Ngài là Đức Kitô, là Thiên Chúa. Chúng ta có thấy tâm hồn hân hoan vui vẻ khi được đón Chúa vào lòng không? Muốn được niềm vui này, muốn nhận ra Chúa Cứu Thế và đón tiếp Ngài, phải theo đúng dấu hiệu thiên thần đã chỉ: “Một em bé sơ sinh, bọc tã nằm trong máng cỏ”. Phải đơn sơ khiêm tốn, không được khinh thường những người bé nhỏ khó nghèo. Chúa nằm trong máng như một thức ăn, để nuôi sống chúng ta.
Lạy Chúa, Ngài hạ mình xuống làm người, để dẫn đưa con người về với Chúa. Chúng con xin tạ ơn Ngài. Xin giúp chúng con theo gương Chúa, biết hạ mình phục vụ Chúa trong mọi người, trở nên anh chị em của mọi người trong xã hội hôm nay.[Mục Lục]
Vào năm 1994, hai nhà giáo Mỹ được bộ giáo dục Nga mời sang dạy. Nhân mùa Giáng Sinh họ đến thăm một viện mồ côi, và kể chuyện Chúa Sinh Ra cho trẻ. Các em mồ côi cũng như ban quản đốc sung sướng há hốc mồm ngồi nghe họ kể chuyện Giáng Sinh. Sau đó, họ phát cho các em vật dụng thủ công để làm Máng Cỏ. Trong khi đi tới đi lui trông các em làm Máng Cỏ, họ ngạc nhiên khi thấy Máng Cỏ của bé Misha, trông chừng 6 tuổi, có đến hai bé sơ sinh nằm trong máng. Đức Mẹ sinh đôi? Không thể được! Bỡ ngỡ, nhưng bình thản, họ mời Misha kể lại đầu đuôi câu chuyện Chúa Sinh Ra. Nhỏ Misha kể rất thông suốt, rành mạch, đúng với Tin Mừng, từ lúc Truyền Tin cho đến khi hai ông bà không tìm được chỗ trong quán trọ. Nhưng khi đến phần Đức Mẹ sinh Chúa Giêsu và đặt trong máng, thì em bắt đầu tự do cho thêm mắm muối: Khi Đức Mẹ đặt Bé Giêsu vào trong máng, thì Bé nhìn em và hỏi: em có chỗ ở chưa? Em thưa: Con đâu có cha, có mẹ, con đâu có nhà! Vậy thì em ở với tôi nhé! Nhưng em ngại ngùng: con đâu có quà gì để tặng Chúa như người khác được! Vì em rất mong muốn được ở với Bé Giêsu, nên em nghĩ em có thể tặng Chúa tất cả những gì em có: Hay là con ôm Chúa cho Chúa ấm được không? Tuyệt, món quà quý đó chưa ai cho tôi cả. Thế là em nhảy ngay vào trong máng cỏ này và nằm ôm cho Chúa ấm. Chúa Giêsu cũng giang tay ôm lấy em và bảo: Em có thể ở với tôi luôn luôn. Vừa nói Misha vừa lấy tay chùi mắt chùi mũi. Lệ đã tuôn thành giòng trên gò má hốc hác của em bé mồ côi.
Hãy vào đây, hỡi những Misha, vì khi Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm nom; Ta ngồi tù, các ngươi đã đến thăm. Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh chị em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy (Mt 25, 35-36, 40). Giữa lòng đời hôm nay cũng lắm trẻ thơ lạnh giá. Ngay trong xã hội Hoa Kỳ, và các nước tân tiến, giàu sang cũng đầy kẻ, đầy trẻ homeless. Không những homeless vì không có căn nhà để ở, không tìm được chỗ trong quán trọ, mà còn homeless ngay giữa bốn bức tường được cách hàn, cách nhiệt (insulation) vì phải sống giữa những trái tim được insulated – cách biệt quá kỹ bởi cá nhân chủ nghĩa, tư lợi chủ nghĩa, hưởng thụ chủ nghĩa,… bởi gia đình tan vỡ, ly dị, ly thân. Các em ấy đang mong đợi vòng tay ấm áp của bạn đó! Các em ấy đang giang tay mong chờ con tim bằng thịt, biết yêu, và yêu nồng nàn ấm áp của bạn đó! Và nếu lỡ các em ấy chính là người trong nhà bạn thì đau lắm! Lạnh ngắt con tim! Mời bạn mở rộng con tim, nhảy vào máng cỏ cuộc đời, sưởi ấm những bé thơ đang cần nhờ bạn, để không phải Đức Mẹ sinh đôi mà còn là Mẹ muôn người.
Xin Chúa Giêsu ngự trị con tim bạn!
Chúa Giêsu ngự trị lòng ta, luôn luôn![Mục Lục]
“Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương”. Nhìn vào bất cứ một hang đá nào chúng ta đều nhìn thấy hàng chữ trên, đây là sứ điệp của lễ giáng Sinh Thiên Chúa gửi cho tất cả loài người, sứ điệp đó chính là lời ca hát tung hô của các thiên thần trên hang đá Bêlem xưa kia.
Trước hết, về việc tôn vinh Thiên Chúa, chúng ta thấy các thiên thần, đất đá, cỏ cây, trời đất… còn biết ca tụng vinh quang Thiên Chúa, còn con người chúng ta thì sao? Biết đâu chúng ta sống mà không sống tôn vinh Thiên Chúa, tệ hơn nữa, có thể chúng ta còn ăn cắp vinh danh Chúa hoặc xóa bỏ vinh danh Ngài. Đáng lẽ của Thiên Chúa phải trả cho Ngài, đáng lẽ chúng ta phải làm cho người khác biết mà ca ngợi Cha chúng ta trên trời thì chúng ta đã làm ngược lại chăng? Vì thế, chúng ta hãy tôn vinh danh Chúa trong cuộc đời chúng ta và bằng chính con người chúng ta, nghĩa là chúng ta hãy thể hiện bằng việc phục vụ mọi người và phục vụ bằng những việc làm tốt. Chúng ta hãy nhớ: bao lâu chúng ta còn sống với người khác và trong xã hội, bấy lâu chúng ta còn có vô số hoàn cảnh làm sáng danh Chúa, bởi vì chúng ta luôn luôn có thể phục vụ, mà phục vụ con người, phục vụ xã hội, bất cứ cách nào, miễn là bằng việc làm tốt thì chính là một cách tôn vinh danh Chúa, là góp phần làm sáng lên trong Giáo Hội và xã hội hình ảnh sống động của Thiên Chúa giàu lòng thương xót, là góp phần làm sáng lên tình thương yêu của Chúa trong lịch sử cứu độ.
Còn vấn đề “Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” thì sao? Câu đó bảo cho chúng ta biết: muốn có bình an, muốn được bình an, chúng ta phải có thiện tâm, nghĩa là lời các thiên thần là lời công bố bình an, nhưng lại gồm một điều kiện cần thiết: phải có thiện tâm. Thiện tâm không phải là hoàn hảo, cũng không đòi phải toàn thiện, nhưng là có một tấm lòng ngay thẳng, trong sạch, bởi vì chúng ta chỉ được bình an khi lương tâm trong sạch, như thánh Gioan Kim Khẩu nói: “Một lương tâm trong sạch là nguồn bình an lớn nhất trong cơn hoạn nạn”. Hơn nữa, một tấm lòng trong sạch là một máng cỏ sẵn sàng để Chúa Hài đồng đến ngự. Nếu bình an của Chúa là như thế thì chúng ta có được lời chúc phúc của các thiên thần không? Muốn biết có hay không, chúng ta hãy nhìn vào kết quả của việc làm. Không ai cho cái mình không có, một người không có bình an thật sự của tâm hồn, họ sẽ chạy đi đây đi đó để tìm bình an giả tạo bên ngoài, nơi người khác hay sự vật và hoàn cảnh chung quanh, đó là những nơi thiếu vắng tình yêu của Chúa. Điều này rất dễ kiểm chứng, như sách Đại Học viết: “Một con tim không ngay chính, bất an xáo trộn, thì con người ấy dù có giương mắt ếch ra mà nhìn cũng không thấy, lắng tai nghe cũng không được gì, mà có ăn nhậu gì cũng chẳng biết mùi vị nữa”. Đó, một khi con tim đã bất an, đã xốn xang mà còn ảnh hưởng tới cái nhìn, việc nghe và ăn uống như vậy, thì huống chi là khi tâm hồn chúng ta hiểm độc, gian ác, tham lam còn ảnh hưởng tới gia đình và xã hội biết chừng nào, còn đâu nữa “Tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”.
Hôm nay ngày Chúa Giáng Sinh, ngày Chúa ban bình an, Chúa muốn chúng ta kiểm điểm lại từng tâm hồn, từng gia đình, từng cộng đoàn có được thực sự thứ bình an mà Chúa từ trời mang xuống không? Xin mời mọi người hãy hồi tưởng lại xem cuộc đời mình đã gây bất an, xáo trộn, sóng gió cho những ai và lý do tại sao vậy, và bây giờ mình và người đó có còn bất an với nhau không? Tại sao còn nhìn nhau bằng nửa con mắt, hoặc bất ngờ gặp nhau thì lại tránh né? Xin hãy nhìn lại gia đình mình: tại sao gia đình lại ngột ngạt, xô xát, chiến tranh lạnh, chia đủ phe cánh, lườm nguýt, hành tỏi, lừa đối nhau, nghi ngờ nhau… có gia đình đang gặp chiến tranh nóng loại bỏ là làm hại nhau, chà đạp danh dự của nhau. Người ta bảo “trâu bò húc nhau, ruồi muỗi chết oan”. “Hai con voi đánh nhau, dẫm nát đám cỏ non”, chúng ta là những bậc bề trên, là người lớn, là cha mẹ mà cãi nhau, đánh nhau, thù oán nhau thì ảnh hưởng tai hại không nhỏ cho anh em, hàng xóm, cho chính con cái trong nhà và ngoài xã hội, và hiện giờ gia đình chúng ta đang ở trong tình trạng nào?
Xin mọi người hãy suy nghĩ cho kỹ hai chữ “bình an” để sống cho mình và giúp người khác cùng sống bình an. Chúng ta hãy cầu xin Chúa Giêsu Hài Đồng: Lạy Chúa, Chúa đã nói “Phúc cho người xây dựng bình an, vì họ được gọi là con Thiên Chúa”, xin cho chúng con vào số chúc phúc đó. Từ địa vị một Thiên Chúa, Chúa đã hiện diện giữa nhân loại, bằng lòng chấp nhận thân phận đau khổ như mọi người để đem họ về nguồn bình an chân thật, thì xin cho chúng con biết từ bỏ mọi địa vị, khả năng, hoàn cảnh để gieo vãi tin mừng bình an. Chúa đã chết để đem lại bình an thật, thì xin đừng ai sống mà cắt xén hay làm chết đi niềm vui, hy vọng của anh em mình. Xin Chúa đoái thương riêng đến những gia đình đang bất an vì cơm áo, danh dự để họ gặp lại cảnh gia đình đầm ấm yêu thương. Xin cho chúng con luôn được sống trong bình an của Chúa.[Mục Lục]
Chắc bạn cùng đồng ý với tôi khi nói: Đêm mừng Chúa giáng sinh trở thành đêm hội của mọi người và của thế giới. Tôi thấy đường đi đông quá: người đi xe, kẻ đi bộ nườm nượp. Tôi cũng để ý, nét mặt mọi người đều ánh lên vẻ vui tươi, hân hoan. Hình như đêm nay ít người ở trong nhà, nhưng người ta ra khỏi nhà nhiều hơn. Rõ ràng, Giáng Sinh trở thành đêm hội của mọi người. Chắc bạn cũng như tôi đều hãnh diện vì lễ Giáng Sinh không chỉ là lễ của người có đạo mà nó là lễ của mọi người. Mầu nhiệm Thiên Chúa làm người đã được mọi người biết đến.
Thế nhưng trong niềm hãnh diện đó, tôi lại cảm thấy một cái gì băn khoăn, ray rứt, xót xa. Chính lời thiên thần hát trong đêm giáng sinh làm tôi phải âu lo. Âu lo không vì thiên thần hát, cũng không phải vì lời hát của thiên thần. Lời ấy làm cho lòng tôi thêm yêu mến và thánh thiện. Có thể bạn sẽ cho tôi là bi quan. Tôi lo vì nhìn vào thực tế, nhận ra sự vô tâm của nhiều người. Lời của thiên thần hát là lời gì? Thiên thần hát rằng: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm”. Đêm nay có bao nhiêu tâm hồn làm vinh danh Thiên Chúa? Và nếu hiểu “thiện tâm” là thành tâm thiện chí thì có bao nhiêu người thành tâm thiện chí tôn thờ Chúa để được bình an vì đại đa số nhân loại đã làm mất ý nghĩa của lễ Giáng Sinh? Thay vì kỷ niệm Ngôi Hai nhập thể làm người, để hướng tâm hồn chuẩn cho ngày Người trở lại, người ta biến đêm hội giáng sinh thành đêm của ăn chơi sa sỉ. Đêm nay biết bao nhiêu nhà hàng vũ trường mở rộng để đón khách, và sẵn sàng mở mọi dịch vụ để chìu chuộng khách, dù cho có những dịch vụ hết sức đê hèn. Biết bao nhiêu tụ điểm vui chơi đang hoạt động rầm rộ.
Chúng ta nghĩ đến Palestina mà cảm thấy ngậm ngùi. Thành phố Bêlem, nơi Đấng Cứu Thế đã từng cất tiếng khóc đầu tiên, đêm giáng sinh lại không thể sống trong hòa bình. Trên chính quê hương của Chúa Giêsu, nơi mà hai ngàm năm trước, Người đã sinh ra, lớn lên. Và Tin Mừng được rao giảng cho cả thế giới cũng khởi đi từ đất nước này, khi mà cả thế giới nô nức tưởng niệm Chúa Giêsu sinh ra, Palestin lại chim trong chiến tranh. Người ta đang giết hại lẫn nhau. Khúc hát thiên thần: “Bình an dưới thế cho người thiện tâm” không có được trên chính quê hương của Chúa Giêsu.
Biết bao nhiêu tụ điểm ca nhạc, có thể là những bài ca rất giáng sinh, ca ngợi Thiên Chúa. Nhưng những ca sĩ và những người nghe những bài hát đó có được một tâm hồn ca ngợi Thiên Chúa không, hay chỉ là một thứ vui chơi nào đó? Biết bao nhiêu chàng trai cô gái đêm nay ra khỏi nhà để vui đêm hội giáng sinh? Và trong dòng người trẻ đó, chắc hẳn có rất nhiều thanh niên nam nữ có đạo đánh đổi việc thờ phượng Thiên Chúa bằng những thú vui vô giá mà những người không có niềm tin đang say mê? Và có biết bao nhiêu chàng trai cô gái choi choi, ào ra đường bằng những chiếc xe phân khối lớn để lạng lách, để đua xe hết tốc độ, để rồi gieo không biết bao tai họa?
Nếu đêm Chúa sinh ra – đêm hội Giáng Sinh là dịp để người lao động vất vả, cả lương lẫn giáo có thời gian nghỉ ngơi, có dịp vui chơi giải trí lành mạnh, đêm mà mọi người tạm quên đi những gánh nặng, những lo âu của cuộc đời vốn đã có quá nhiều đắng cay. Nếu đêm hội Giáng Sinh làm cho người ta hạnh phúc như vậy, thì nó mới đúng ý nghĩa của mầu nhiệm Chúa làm người.
Cách riêng, đối với người Công giáo, đêm Giáng Sinh phải là đêm đặc biệt của việc tôn thờ Thiên Chúa. Đêm kính nhớ tình yêu vô bờ bến của Thiên Chúa. Chính nhờ tình yêu này, mà Chúa Giêsu đã giáng sinh làm người, chia sẻ kiếp người của mỗi chúng ta. Có tôn thờ Thiên Chúa thật lòng như thế, thì Thiên Chúa trên trời mới được vinh danh trong tâm hồn của mỗi người. Và tâm hồn chỉ dành cho Thiên Chúa mà thôi, tâm hồn mới có bình an.
Tin rằng bạn và tôi là những người thành tâm, thiện chí tôn thờ Thiên Chúa. Xin hãy tạm quên những lo toan, những vất vả hằng ngày. Hãy tạm gác lại một bên những gì làm chúng ta xôn xao, chia trí, gác lại một bên cái nghèo, cái khổ của cuộc đời để bạn và tôi thực sự được bình an trọn vẹn trong thánh lễ này. Có như vậy, chúng ta mới dâng thánh lễ Giáng Sinh, thờ phượng Thiên Chúa cách sốt sắng và ý nghĩa.
Xin kính chúc các bạn MỘT ĐÊM AN BÌNH, vì chúng ta là những người thiện tâm, đúng như lời thiên thần hát: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời. Bình an dưới thế cho người thiện tâm”.[Mục Lục]
Câu hỏi gợi ý:
- Nếu bạn khám phá ra cha bạn – một người rất giàu có – đã xếp đặt để mẹ bạn sinh bạn ra trong một chuồng bò hay chuồng heo của nhà ai đó, bạn sẽ nghĩ thế nào về cha của bạn? Bạn lý giải thế nào về việc Thiên Chúa đã quan phòng để Đức Giêsu, Con Ngài, ra chào đời trong một chuồng bò?
- Đặt mình vào địa vị của Đức Maria và thánh Giuse, bạn sẽ nghĩ và nói thế nào về Thiên Chúa khi hai Ngài phải rời Nagiarét vào Bêlem, không tìm được chỗ trọ, và phải sinh con trong chuồng bò?
- Tại sao Thiên Chúa lại để cho Đức Giêsu phải chịu đau khổ, nhục nhã từ khi sinh ra đến lúc chết? Thiên Chúa ghét và muốn hành hạ Con của Ngài chăng? Nếu không, phải lý giải thế nào về sự kiện ấy?
Chia Sẻ
- Con Thiên Chúa cao sang lại sinh ra trong cảnh tột hèn kém
Chúng ta thử tưởng tượng xem một vị hoàng đế trần gian nếu biết trước đứa con mình sinh ra sẽ là vị cứu tinh của trần gian, thì hoàng đế ấy sẽ chuẩn bị cho người con ấy chào đời như thế nào? Chắc chắn ông sẽ chuẩn bị cho con mình một nơi thật xứng đáng, với quần áo, tã lót, chăn mền… thật sang trọng. Và cũng tạo những điều kiện thuận lợi nhất cho người mẹ sẽ sinh ra con mình. Chính vì tưởng rằng Thiên Chúa trên trời cũng suy nghĩ như mình, nên người Do Thái thời Đức Giêsu đã tưởng Đấng Cứu Thế sẽ phải sinh ra trong cung vàng điện ngọc. Nhưng họ không ngờ Thiên Chúa suy nghĩ khác hẳn với cách nghĩ của họ!
Theo Tin Mừng, Đức Giêsu đã sinh ra trong hang bò lừa. Đã là chỗ nuôi và chứa sức vật đương nhiên phải hôi tanh và bẩn thỉu. Chắc chắn Giuse và Maria phải hết sức ngỡ ngàng khi thấy Thiên Chúa đối xử với mình, nhất là với Đấng Cứu Thế hài nhi như vậy! Nhục nhã thay cho Đấng Cứu Thế! Bất kỳ ai biết mình chào đời trong một chỗ tối tăm và nhục nhã tận cùng như thế đều không tránh được mặc cảm cho rằng cuộc đời mình cũng sẽ tối tăm và nhục nhã như thế!? Trước sự thật phũ phàng trước mắt, chắc hẳn phải có lúc hai ông bà nghi ngờ rằng: liệu lời thiên sứ nói với mình về đứa trẻ mình sinh ra có thật hay không? Nghi ngờ để rồi lại tự nhủ, tự an ủi, tự tìm lấy lý do để cố mà tin cho vững hơn! Thực tế thật phũ phàng, nhưng đó lại chính là thánh ý của Thiên Chúa. Muốn cứu thế giới khỏi những nhơ nhớp của tội lỗi, Con của Ngài cũng phải nhập thể từ chốn nhơ nhớp nhất của trần thế! Muốn đưa con người lên thật cao, Thiên Chúa nhập thể phải xuống cho thật thấp, thấp đến tận cùng!
- Cách xếp đặt của Thiên Chúa… thật hết sức nghịch lý!
Thật là nghịch lý và không thể hiểu nổi cách Thiên Chúa đối xử với người Con độc nhất và hết sức yêu quí của Ngài, và với hai người đặc biệt mà Ngài chọn để hạ sinh, bảo vệ và nuôi dưỡng người Con ấy! Giuse và Maria đang sống yên lành tại Nagiarét, những tưởng đứa con trong bụng nàng sẽ ra đời tại nhà mình ở làng ấy. Chắc hẳn chàng và nàng đã mua sắm đồ này vật nọ để chuẩn bị cho xứng đáng với chức vị cao cả của đứa bé sắp chào đời! Nào ngờ chiếu chỉ kiểm tra dân số của Hoàng Đế Rô-ma đã đảo lộn tất cả, đã đẩy đôi trai gái đức hạnh – chỉ biết nghĩ đến thánh ý Thiên Chúa – vào một cuộc phiêu lưu bất ngờ đầy gian khổ!
Từ làng Nagiarét vùng Galilê thuộc miền Bắc Do Thái, chàng và nàng phải vượt qua vùng Samari đầy đồi núi của miền Trung để về tận làng Bêlem vùng Giuđê thuộc miền Nam Do Thái. Đường chim bay đo theo tỷ lệ xích trên bản đồ cũng phải là 120 cây số, đường ngòng ngoèo trong thực tế hẳn phải trên 150 cây. Thời ấy có lẽ hai người phải dùng một con la để di chuyển. Hành trình chắc chắn vất vả! Điều nghịch lý nhất nằm ở chỗ Thiên Chúa lại quan phòng cho ngày phải di chuyển ấy xảy ra khi Maria mang thai đến thời kỳ sinh nở. Sau một hành trình vất vả như thế, khi tới nơi những tưởng Thiên Chúa sẽ dành cho Con của Ngài một chỗ để sinh nở tương đối xứng đáng, nhưng khốn thay… tất cả mọi người mọi nơi đều từ chối! Nếu hai ông bà có tiền, chắc hẳn không đến nỗi! Chưa sinh ra, Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể đã phải đối diện với sự ích kỷ và tính coi trọng tiền bạc hơn tình nghĩa của con người! Không kiếm được chỗ để trọ và sinh con, hai ông bà đành trọ và sinh con trong chuồng súc vật!
Kết quả của những nghịch lý ấy là gì? ai phải khổ đây? Cả gia đình gồm 3 người Giuse, Maria và Giêsu là khổ nhất. Phải chăng Thiên Chúa ghét và muốn đày đọa gia đình này? Chắc chắn không phải! – Có thể nói đây là gia đình quan trọng nhất, được Thiên Chúa quan tâm, ưu ái đặc biệt nhất! Vì thế, nếu đã xảy ra như vậy – đương nhiên là do sự quan phòng vô cùng khôn ngoan của Thiên Chúa – thì ắt hẳn đây phải là cách có lợi nhất cho đại cuộc cứu chuộc nhân loại. Như vậy, vì đại cuộc, Thiên Chúa buộc những «người của Ngài» phải hy sinh, phải chấp nhận nhục nhã, đau khổ hơn những người khác. Nhưng bù lại, Ngài sẽ ân thưởng cho «người của Ngài» vinh quang, hạnh phúc cao quí nhất!
- Nghịch lý… nhưng lại rất hợp lý và khôn ngoan
Như vậy ta thấy Thiên Chúa coi hạnh phúc hay đau khổ, vinh quang hay nhục nhã chóng qua trong hiện tại không quan trọng bằng hạnh phúc hay đau khổ, vinh quang hay nhục nhã lâu dài trong tương lai. Nếu phải chịu khổ hay chịu nhục một chút trong hiện tại để rồi được hạnh phúc hay vinh quang lâu dài trong tương lai, thì ai khôn ngoan cũng đều sẵn sàng chấp nhận. Còn nếu được hưởng hạnh phúc hay vinh quang thật ngắn ngủi trong hiện tại để rồi phải chịu đau khổ và nhục nhã lâu dài trong tương lai, thì chỉ có người ngu mới chấp nhận! Những cha mẹ thật sự yêu thương con cái sẵn sàng chọn lựa để con cái mình phải đau khổ hay chịu nhục nhã một chút hầu về sau chúng được hạnh phúc và vinh quang lâu dài. Bạn chưa tin ư? Này nhé, giả như bạn phải chọn lựa cho bạn hoặc cho con cái bạn giữa ba khả thể sau đây, thì bạn chọn khả thể nào: một là đau khổ hiện tại 1 mà hạnh phúc tương lai 10, hai là đau khổ hiện tại 2 mà hạnh phúc tương lai 100, và ba là đau khổ hiện tại 3 mà hạnh phúc tương lai 1.000? Chắc chắn bạn sẽ chọn khả thể thứ ba. Thiên Chúa cũng chọn lựa cho những người Ngài đặc biệt yêu thương tương tự như vậy. Chính vì thế, Ngài sẵn sàng để Đức Giêsu, Người Con độc nhất mà Ngài yêu quý nhất phải chịu đau khổ và nhục nhã ngay từ khi chào đời đến giây phút cuối cùng của cuộc đời để cứu chuộc nhân loại, hầu cuối cùng, trong vĩnh cửu, Đức Giêsu trở thành người hạnh phúc và vinh quang nhất không ai sánh bằng!
Nếu ta biết nhìn bằng con mắt đức tin và khôn ngoan như thế, thì việc Đức Giêsu phải chịu đau khổ và nhục nhã từ khi sinh ra cho đến hết cuộc đời sẽ trở thành một sự kiện bảo đảm, một căn cứ để hy vọng, và một niềm an ủi lớn lao cho ta khi ta gặp phải những đau khổ lớn lao trong cuộc đời. Khi Thiên Chúa dành cho chúng ta đau khổ hay nhục nhã trong hiện tại, thì điều đó không có nghĩa là Ngài ghét bỏ ta. Trái lại có thể là Ngài đang dành cho ta một ưu đãi, một sự yêu thương đặc biệt mà ta có quyền chấp nhận hay từ chối. Nếu tự nguyện chấp nhận thì hạnh phúc và vinh quang của ta sẽ rất lớn, và lớn thế nào tùy thuộc vào chất lượng sự tự nguyện của ta và mức độ đau khổ ta sẵn sàng đón nhận. Nếu từ chối, ta sẽ bỏ lỡ một cơ hội quí báu mà Thiên Chúa vì yêu thương đã dành cho ta, vì «những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta!» (Rm 8,18).
Vậy, người thường hay kẻ không tin kêu ca về nghịch cảnh, về đau khổ mình phải chịu thì không có gì là lạ. Nhưng người Kitô hữu, người mang danh theo Chúa, người có lý tưởng tông đồ, người được Chúa chọn, được mang danh là «người của Ngài», mà lại than vãn khi gặp nghịch cảnh thì quả là… vẫn còn sống theo tính xác thịt, như thánh Phaolô đã phiền trách: «Tôi không thể nói với anh em như với những con người sống theo Thần Khí, nhưng như với những con người sống theo tính xác thịt, như với những trẻ nhỏ trong Đức Kitô. Tôi đã cho anh em uống sữa chứ không cho dùng thức ăn, vì anh em chưa chịu nổi. Nhưng bây giờ anh em cũng vẫn còn không chịu nổi, vì anh em còn là những con người sống theo tính xác thịt» (1Cr 3,1-3).
Cầu nguyện
Lạy Cha, Đức Giêsu sinh ra thật nhục nhã và sống một cuộc đời đầy đau khổ, nhưng đã sống lại trong vinh quang và trở thành Chúa Tể trời đất. Qua sự việc ấy con mới hiểu được giá trị của đau khổ. Đúng lý ra khi gặp đau khổ, nhục nhã, trái ý… con phải vui mừng vì biết khi cho phép xảy ra như vậy là Cha thương con cùng một cách như Cha đã từng thương Đức Giêsu và bao vị thánh của Cha. Đúng ra con nên nói «con được đau khổ» chứ không phải «con bị đau khổ»![Mục Lục]
Chuyện kể rằng, có hai người bạn chia tay nhau đi tìm điều quí giá nhất trên đời. Họ hẹn sẽ gặp lại sau khi đã tìm thấy. Người thứ nhất đi tìm viên ngọc quí. Bất cứ nơi nào bán đá quí, anh đều tìm đến. Cuối cùng, anh cũng mãn nguyện vì đã tìm được viên ngọc quí, anh trở lại quê hương chờ bạn.
Người thứ hai đi tìm Chúa. Anh đi khắp nơi thọ giáo các bậc thánh hiền, cặm cụi đọc sách, nghiền ngẫm, nhưng vẫn không tìm được Chúa.
Nhiều năm trôi qua, đang lúc tuyệt vọng, anh nhìn dòng sông lững lờ: một đàn vịt con đang bơi lội tung tăng. Trong khi vịt mẹ tìm con, thì bày con lại cứ muốn rời mẹ tìm ăn riêng. Vịt mẹ chẳng hề tỏ vẻ giận dữ, cứ lẽo đẽo theo bày con và gom chúng lại. Thấy cảnh vịt mẹ mải mê tìm con như thế, anh mỉm cười trở về quê hương.
Khi người bạn hỏi điều quí mà anh đã tìm được là gì, khiến gương mặt anh rạng rỡ như thế. Lúc đó, con người trở về với hai bàn tay trắng, nhưng tâm hồn tràn ngập niềm vui mới thốt lên: – Điều quí giá mà tôi đã tìm thấy, đó là trong khi tôi đi tìm Chúa, thì chính Người đã đi tìm tôi. “Ngôi Lời đã nhập thể, và cư ngụ giữa chúng ta”. Nhiều khi chúng ta tưởng mình đi tìm Chúa, nhưng thật sự là chính Chúa đi tìm chúng ta trước.
Ngay khi con người sa ngã phạm tội, Thiên Chúa đã lên kế hoạch cứu chuộc. Ngay khi con người phản bội bất trung, Thiên Chúa đã mở lối cho họ quay bước trở về. Ngay khi con người vô phương cứu lấy chính mình, Thiên Chúa đã sai Con Một đem thân cứu độ.
Đêm nay là đêm giao duyên đất trời, đêm hội hoa đăng, đêm đầy ánh sáng, đêm Thiên Chúa viếng thăm con người. Đúng như thông điệp chứa chan hy vọng của tiên tri Isaia: “Một hài nhi đã sinh ra cho chúng ta và một Người Con đã được ban tặng cho chúng ta”.
Con người không thể lên tới Thiên Chúa, nên Thiên Chúa đã xuống với con người. Chúa xuống trần gian để cho trần gian biết đường về trời. Chúa mặc lấy bản tính con người để cho con người trở nên con cái Chúa: Thánh Gioan viết: “Những ai tin ở Người thì Người ban cho quyền được làm con Thiên Chúa”.
Giáng Sinh là mùa tặng quà: “Đức Giêsu là quà tặng quí giá nhất Thiên Chúa trao gởi cho con người”. Đến lượt mình, chúng ta cũng hãy trao tặng cho anh em những gì họ cần thiết nhất, với tất cả lòng yêu quí, trân trọng như chúng ta đang dâng tặng cho chính Hài nhi Giêsu. Những kẻ nhỏ bé nhất, những người cô độc nhất, những kẻ chịu nhiều đau khổ nhất lại chính là những con người cần được tặng quà nhất. Chúng ta cần chứng tỏ rằng họ đáng kể đối với chúng ta, rằng tên họ chiếm một vị trí trong quả tim chúng ta. Đó chính là quà tặng mà Hài nhi Giêsu đang mong đợi. Một cách nào đó, khi tặng quà, chúng ta muốn trao ban vô vị lợi, trao ban không tính toán, trao ban trọn vẹn. Mẹ Têrêsa Calcutta định nghĩa: “Kitô hữu là người trao ban chính bản thân mình”.[Mục Lục]
Trong sinh hoạt của đời sống thường nhật, mối tương liên giữa con người được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Chẳng hạn như lời nói, thư từ, có khi là một cánh hoa hay là một tặng vật nào đó. Nhưng tất cả dù thể hiện dưới bất cứ hình thức nào nó cũng đều có chung một mục đích là diễn tả ý nghĩa của một sứ điệp mà người gởi muốn tỏ bày.
Sứ điệp đó có khi là ước muốn hoà bình của nhân loại trên thế giới gói ghém trong một viên gạch được lấy từ bức tường ô nhục Bá linh mà tổng thống Bush của Hoa Kỳ đã tặng Chủ tịch Gorbachov của Liên Xô trong cuộc họp thượng đỉnh ngoài khơi đảo Malta vào dịp Giáng Sinh năm 1989.
Sứ điệp đó cũng có khi là một lời mời gọi, một xã hội sống xa lìa Thiên Chúa hãy trở về với chính nguồn sự sống như quyển Tân Ước mà Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã tặng nhà lãnh đạo Liên Xô, Chủ tịch Gorbachov, cũng vào mùa Giáng Sinh năm 1989. Quyển Tân Ước có ghi hàng chữ: “Ta là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống”. Đó là tất cả những gì mà Đức Thánh Cha và toàn thể thế giới Công giáo gởi đến cho một xã hội đã từ lâu gạt bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống.
Trải qua hai ngàn năm, Thiên Chúa luôn tặng ban món quà vô giá là Người Con rất yêu dấu của Ngài cho xã hội, gia đình và mỗi người chúng ta.
* Đối với xã hội:
Tiên tri Isaia và Thánh sử Luca cho chúng ta thấy quang cảnh: Một đoàn dân đang lầm bước trong lầm than, bao cái ác đè lên cổ dân, bao cái gậy đập xuống vai họ, bao ngọn roi của bọn hà hiếp, Thiên Chúa đến để bẻ gẫy trong ngày Con Ngài chào đời. Người Con đó đã bao phủ vinh quanh Thiên Chúa trên các mục đồng đang vất vả thức thâu đêm canh giữ đoàn chiên và tất cả lớp dân lao động sống trong bóng tối. Người là thủ lãnh của họ và Người sẽ kiến tạo một xã hội an bình trên nền tảng chính trực, xã hội ấy sẽ tồn tại mãi mãi.
* Đối với gia đình:
Biết bao gia đình cô đơn, nghèo khó đang mang gánh nặng, chẳng hạn như trường hợp của Đức Mẹ và Thánh cả Giuse, mặc dầu nghèo khó và Đức Mẹ đã tới ngày “mãn nguyệt khai hoa”, vẫn sẵng sàng lên đường về cố hương để khai sổ kiểm tra dân số theo lệnh của nhà cầm quyền. Nô đơn đến nỗi cố hương Belem không còn bà con thân thích nào đón nhận. Nghèo túng đến nỗi không có tiền mướn được một chỗ trú đêm, đành sống thân phận của kẻ hành khất, ra đồng tìm nương thân nơi hang xúc vật. Con Thiên Chúa đã xuống thế làm người trong cái gia đình nghèo khó ấy, Ngài không nổi loạn chống đối, chỉ biết vui sống trong hy sinh như Maria và Giuse, để chia sẻ thân phận nghèo hèn của họ, đưa lại vinh quang Thiên Chúa và bình an cho họ.
* Đối với cá nhân:
Sống trong một thế giới đầy dẫy những bất công, chỉ lo tìm hưởng thụ mà lãng quyên hoặc xa lìa Thiên Chúa. Sự xuất hiện của Con Thiên Chúa thật là một món quà tuyệt vời; Người là cố vấn kỳ diệu, dạy chúng ta từ bỏ lối sống vô đạo và ham muốn trần tục, thoát khỏi mọi điều bất chính, thanh luyện chúng ta tiết độ, công bình và nhân ái ở đời này, nhờ đó chúng ta là dân riêng của Người. Người là Cha muôn thuở của chúng ta. Người đã tự hiến chịu chết để cứu chuộc chúng ta, ban cho chúng ta niềm hoan hỷ. Chúng ta sẽ hân hoan trước nhan Người, như thiên hạ hoan hỷ trong mùa gặt bội thu.
Chính vì yêu thương, Thiên Chúa đã tặng ban món quà vô giá ấy cho xã hội, gia đình, và từng người chúng ta.
Phần chúng ta, là những người của ngàn năm thứ ba, chúng ta có thái độ nào khi chiêm ngưỡng Hài Nhi Giêsu trong hang Belem? Chúng ta có biết đón nhận tặng ân của Thiên Chúa với tâm hồn đơn sơ như các mục đồng năm xưa, hay chúng ta lại trở thành khách bàng quang, thành những người tôi tớ mà khi chủ đến thì chẳng thèm tiếp rước (Jn 11). Để rồi chỉ có đêm lạnh lùng băng giá, chính đêm ấy đã đón tiếp Người đến giữa nhân loại.
Lạy Chúa, Chúa đã trao ban cho chúng con tất cả, nhưng chúng con biết lấy gì dâng lại cho Chúa và anh em chị em chúng con? Chúng con xin lấy chính Tình Yêu của Con Chúa mà chia sẻ những thống khổ anh chị em chung quanh chúng con đang gặp phải. Xin cho chúng con biết lấy Lời Chúa làm quà tặng cho những ai đang đói khát trong tăm tối tội lỗi, để ánh sáng huy hoàng Giáng Sinh của Chúa làm cho con tim họ bừng cháy trong an bình và hạnh phúc. Ước chi niềm vui Giáng Sinh ở cùng chúng con luôn mãi. Amen.[Mục Lục]
(Suy niệm của ĐTGM. Ngô Quang Kiệt)
Thánh Gioan Tông Đồ định nghĩa: “Thiên Chúa là tình yêu”. Thiên Chúa đã bày tỏ tình yêu của Ngài bằng nhiều cách dưới nhiều hình thức khác nhau. Nhưng Thiên Chúa với hình ảnh ta khó thấy được và nhiều khi không nhận ra những công trình tình yêu của Ngài. Yêu nhiều rồi cũng có lúc phải nói ra. Thiên Chúa quá yêu thương con người nên sau cùng đã gửi Con Một của Ngài xuống trần để tỏ cho ta biết tình yêu Thiên Chúa. Con Một Thiên Chúa chính là Lời của Chúa ngỏ với nhân loại. Vì thế ta hãy vào hang đá Bêlem để lắng nghe được Lời Chúa nói với ta. Chúa Giêsu bé thơ không nói bằng âm thanh vật lý, nhưng Ngài nói bằng âm thanh của trái tim. Lời của Ngài là lời của tình yêu. Qua bản thân Ngài, qua ánh mắt Ngài, qua khung cảnh hang đá, ta sẽ nghe được tiếng thì thầm của Thiên Chúa. Tiếng thì thầm đó là tiếng nói của tình yêu dưới nhiều sắc mầu khác nhau.
Đó là tiếng nói của tình yêu dâng hiến. Bêlem theo tiếng Do Thái có nghĩa là nhà bánh. Chúa Giêsu tự nguyện trở thành tấm bánh nuôi dưỡng chúng ta. Ngài nằm trong máng cỏ như một lương thực mời gọi đoàn chiên đến để được bổ dưỡng. Lương thực đó không phải là lương thực vật chất nuôi xác, nhưng là lương thực thiêng liêng nuôi dưỡng tâm hồn. Ngày nay, tuy nạn đói cơm bánh đã bớt phần gay gắt, nhưng lại xuất hiện những cơn đói mới: đói văn hóa, đói sự an ủi chia sẻ, và nhất là đói khát đời sống thiêng liêng. Chúa Giêsu chính là tấm bánh bẻ ra cho thế giới mới, đáp ứng những cơn đói mới của thế giới.
Đó là tiếng nói của tình yêu khiêm nhường. Tình yêu chân thực là tình yêu khiêm nhường. Tình yêu hạ mình vì người yêu. Chúa Giêsu đã hạ mình thẳm sâu. Từ trời xuống đất. Từ địa vị Thiên Chúa xuống địa vị làm người. Khiêm nhường nên nhường hết không gian cho con người. Những không gian rộng lớn, cao sang thuộc về con người. Chúa chỉ thu mình trong một góc nhỏ nghèo hèn của chuồng bò. Nhường không gian cho con người ăn nói. Còn Chúa chịu im lặng, thu nhỏ trong câm nín.
Đó là tiếng nói của tình yêu đi tìm. Tình yêu của Thiên Chúa luôn đi những bước trước. Yêu con người khi con người chưa biết yêu Chúa. Tha thứ cho con người trước khi con người xin lỗi. Đi tìm con người trước khi con người quay về. Cuộc đi tìm thật vất vả. Chúa phải bỏ trời cao, phải mặc thân phận yếu hèn, phải chịu khổ sở, phải chịu nhục nhã, phải chịu chết mới tìm được con người.
Đó là tiếng nói của tình yêu hy sinh. Vì yêu nên Chúa chấp nhận hết những thiệt thòi về phần mình. Chịu đói nghèo, chịu bị xua đuổi, chịu khổ nhục. Trẻ thơ Giêsu rét mướt nằm trong máng cỏ nói với ta điều gì nếu không phải là tình yêu, yêu đến độ chấp nhận tất cả.
Đó là tiếng nói của tình yêu kết hợp. Cứ dấu này các ngươi nhận biết Ngài, đó là một em bé sơ sinh nằm trong máng cỏ. Vâng, kỳ diệu thay tình yêu Thiên Chúa. Vì yêu nên đã kết hợp trọn vẹn với con người. Trở nên một với con người. Chấp nhận hết những gì của con người. Chấp nhận đói khát, khổ sở, nghèo nàn. Chấp nhận cả những bấp bênh, bất trắc của kiếp người.
Lời Thiên Chúa đang ngỏ với ta qua Hài Nhi nằm trong máng cỏ. Hãy đến bên hang đá để nghe được tiếng nói của Thiên Chúa. Hãy mở rộng trái tim để đón nhận được tình yêu của Thiên Chúa. Trong bóng tối hận thù, ích kỷ, ghen ghét của thế giới, tình yêu Chúa là ánh sáng xé tan đêm tối. Hãy để ánh sáng tình yêu Chúa soi chiếu tâm hồn ta. Hãy đón nhận ánh sáng tình yêu của Chúa, để đến lượt chúng ta, chúng ta đem ánh sáng tình yêu của Chúa chiếu soi vào môi trường chung quanh ta. Để cho thế giới bớt tối tăm. Bấy giờ Lời của Chúa, Lời tình yêu sẽ vang dội khắp thế giới.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Bạn nghe thấy gì qua tiếng nói thinh lặng của Hài Nhi Giêsu trong máng cỏ?
2) Yêu thương, ngỏ lời mà không được lắng nghe và đáp lại. Bạn cảm thấy thế nào nếu rơi vào tình trạng đó? Bạn có hiểu được lòng Thiên Chúa khi ngỏ lời yêu thương với bạn không?
3) Còn nhiều người chưa nghe được lời yêu thương của Chúa. Bạn có sẵn sàng làm sứ giả đem lời tình yêu của Chúa đến với họ không?
4) Để làm sứ giả tình thương, bạn cần những đức tính nào?[Mục Lục]
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Cảnh sát thành phố Los Angeles ở Mỹ đã từng lùng sục mọi hang cùng ngõ hẻm tối tăm để tìm một em nhỏ tên Thad. Nhiều người ở Mỹ và Canađa đã góp tiền, thực phẩm để tặng cho em khi người ta chuyển đến “Cơ quan Bảo vệ Trẻ em Thành phố” một bức thư đầy lỗi chính tả của em. Em viết như sau:
“Thưa Ông “dà” Noen, Giáng Sinh này xin ông giúp đỡ bố mẹ con. Bố con không còn đi làm nữa. Bây giờ nhà con không có nhiều thức ăn. Mẹ con phải cho chúng con ăn những thức ăn đáng lẽ mẹ ăn…
Con muốn được lên “chời” để ở chung với các thiên thần. Ông mang con lên “chời” nhé. Bố mẹ con sẽ không phải mua đồ ăn cho con nữa. Điều đó sẽ làm cho bố mẹ con “xung xướng”. Xin Ông mang cho bố con một chỗ làm và ít thức ăn…
Con sẽ không ngủ đâu. Khi Ông cho bố con một việc làm và cho mẹ con ít thức ăn, con sẽ đi với Ông và bảy tuần lộc… Con gởi lời chúc Giáng Sinh vui vẻ đến Bà Noen và các chú lùn nữa.
Ký tên: Thad.
Người ta vẫn chưa tìm ra em Thad y như rất nhiều người Do Thái đã không tìm ra trẻ Giêsu nghèo khó năm xưa. Họ đâu dám đi ra ngoài vì sợ trời lành, họ không dám đến những khu nhà tối tăm, bẩn thỉu vì sợ dơ quần áo. Họ giống như những người giàu thời đại chúng ta chỉ muốn ở yên trong nhà, tự mãn với những nệm êm, chăn ấm, với những bữa tiệc, những cây thông đủ ánh đèn màu, với những chương trình tivi hấp dẫn. Những người giàu ấy sẽ phải khóc vì không nhận được ơn bình an và ơn cứu độ của Chúa Hài Đồng.
Chúng ta không cần tìm kiếm ở đâu xa xôi, vì Ngôi Lời đã làm người và ở giữa chúng ta. Quả thức, Thiên Chúa không phải chỉ làm người giả hiệu, mà Ngài đã cắm lều ở giữa chúng ta. Để nhận ra điều đó, chúng ta hãy bước đến hang đá. Hẳn nhiên đó chỉ là biểu tượng. Nhưng là một biểu tượng nhắc nhớ một biến cố lịch sử duy nhất. Một cảnh sống nghèo nàn, thanh bạch đến thiếu tất cả, giữa một đêm tối không đèn, không đóm, nơi một góc trời không tên không tuổi. Hai người bạn trẻ, hai người lao động đơn sơ nằm nhờ trên đống rơm giữa những con vật hiền lành. Một hài nhi mới sinh trong một cuộc hành trình bất đắc dĩ. Nhưng Thiên Chúa đó! Thiên Chúa không yêu thương chúng ta từ trời cao. Ngài đã đến cắm lều ở giữa chúng ta, trong da thịt Đức Giêsu Nazarét. Điều mà không ai có thể tưởng tượng ra, đó là Thiên Chúa liên đới trọn vẹn với số phận mạt kiếp của chúng ta. Thiên Chúa đang ở giữa chúng ta, như là một người nghèo nhất tại Bêlem trước khi trở thành người rốt hết trên thập giá. Giáng Sinh nhắc nhớ cuộc gặp gỡ thân tình có một không hai đó giữa Thiên Chúa và con người như một huyền nhiệm, như một trao đổi kỳ diệu.
Và như vậy, thưa anh chị em, chúng ta thấy Thiên Chúa “người” hơn chính chúng ta. Ngài ở dưới đất. Đừng đi tìm Ngài trên khung trời cao! Chúng ta là như vậy đó: Khi tình yêu quá lớn, nghĩa là quá khiêm tốn thì chúng ta lại không dám nhận ra, không dám chấp nhận. Chúng ta không chấp nhận để cho Thiên Chúa yêu thương chúng ta đến mức Ngài đến gặp chúng ta trong huyền nhiệm Nhập Thể của Ngài. Nhưng dù chúng ta có muốn hay không, thì từ nay Thiên Chúa đã đi vào cuộc sống của ngõ hẹp, của chuồng chiên bò, của hang đá, máng cỏ.
Và nếu Thiên Chúa đã tự hạ gần gũi như vậy, tầm thường như vậy, thì không có gì xảy ra trong đời thường của chúng ta lại ở ngoài ánh sáng thần linh của Thiên Chúa, “ánh sáng cho nhân loại, ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và ánh sáng ấy là sự sống”. Khi đất này đã được sự hiện diện yêu thương của Thiên Chúa trong Đức Giêsu bao trùm, thì đất này đã là túp lều của Con Thiên Chúa nhập thể. Mọi đóng góp cho đất này đã trở thành nơi ở, chẳng những ở được mà còn ở tốt cho Thiên Chúa và cho con cái loài người của Ngài, là một điều không ai được khước từ nếu không muốn phủ nhận niềm tin của mình và mầu nhiệm Giáng Sinh. Không có con người nào là con người bị loại ra ngoài tình yêu của chúng ta nếu chúng ta không muốn cho đức ái chỉ là chữ viết trên giấy. Không có cảnh đời nào là cảnh đời chúng ta phải chạy trốn, nếu chúng ta thật sự muốn sống lòng cậy trông của mình. Chúng ta thường đi gặp Chúa ở ngoài cuộc sống cụ thể, hằng ngày, trong khi Thiên Chúa đã nhập thể làm người trong cuộc sống cụ thể hằng ngày đó.
Chính vì thế mà những người Mỹ, những người Canađa, những cảnh sát ở thành phố Los Angeles vẫn chưa tìm ra được em Thad khi họ nhận được bức thư em gởi cho ông già Noen. Bởi em Thad là hiện thân của bao nhiêu em bé và gia đình nghèo đói trên trái đất này, nơi Thiên Chúa đã làm người và cư ngụ ở giữa chúng ta trong những gia đình, những em bé khốn khổ đó.
Anh chị em thân mến, tôi không tin là chúng ta có thể gặp được Chúa trong nhà thờ nếu đã không gặp cho được Ngài trong cuộc sống qua một khuôn mặt nào đó, như khuôn mặt của các em bé mồ côi, khuôn mặt của những ông già bà cụ cô thân cô thế, khuôn mặt của những con người ốm đau, bệnh tật, của những người nghèo đói, của những người bị bỏ rơi, bị loại trừ, thiếu vắng tình thương… Bởi vì, đối với chúng ta, cụ thể mà nói, quê hương này là nơi Thiên Chúa làm người để anh em đồng bào chúng ta không phân biệt giai cấp, được làm con Chúa; là nơi Thiên Chúa hẹn gặp chúng ta; là nơi chúng ta phải gặp Ngài qua chứng từ về ánh sáng, để nhờ ánh sáng anh em đồng bào chúng ta sẽ nhìn thấy Ánh sáng của Tình thương, Ánh sáng của sự sống.[Mục Lục]
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Phần tự ngôn Phúc âm theo thánh Gioan khuyên nhủ chúng ta nhận thức rõ tầm mức siêu phàm của lễ Giáng Sinh, cũng như sự uy nghi của mầu nhiệm Giáng Sinh. Con trẻ Giêsu là Ngôi Lời nhập thể đến cư ngụ giữa chúng ta. Đứng trước Hài nhi bé mọn ở Bêlem, chúng ta được mời tiến sâu vào chính mầu nhiêm Thiên Chúa, tới chỗ của Ngôi Lời – tức là Lời hằng sống và thân mật của Thiên Chúa đã có trước toàn thể vũ trụ. Như vậy chúng ta được mời hãy đến thờ lạy. Kẻ thờ phụng là kẻ khi được tới gần bên Thiên Chúa liền nhận thức sâu sắc rằng mình là kẻ tuỳ thuộc, vô giá trị, tội lỗi nữa. Kính thờ và thinh lặng, cảm tạ và vui sướng, đó là cách tuyên xưng Chúa là sự Thiện tuyệt đối và nguồn mọi ơn lành. Lễ Giáng Sinh mời chúng ta đến thờ lạy Con trẻ Giêsu. Trong Hài Nhi, Thiên Chúa rất gần gũi – trong Hài nhi có sự sung mãn của Thiên Chúa – và nhờ Hài nhi, chúng ta được có mặt trên thế gian để sống, hiểu biết và yêu thương. Sự suy niệm về một vài từ ngữ trong tự ngôn của thánh Gioan có thể cung cấp cho chúng ta một phong cách thờ phụng.
1) Trong Đức Giêsu, chúng ta thờ lạy Đấng tạo hóa. Não trạng nhân lạo thời nay dễ loại bỏ ý niệm về Đấng tạo hoá, con người chỉ muốn những gì mình có là do sức mình. Một số tiến bộ nào đó để tìm hiểu những diễn biến vật chất của sự sống, đã đem lại chước cám dỗ xui con người muốn quyết định ai sẽ có quyền được sinh ra và cuộc đời mình sẽ diễn tiến thế nào. Con người quên mất nguồn gốc mình, quên hẳn sự thể bởi đâu mà mình có được thân xác, có được sự sống. Con người suy tư và hành động như thể không bị hoàn toàn tuỳ thuộc vào Đấng tạo hoá đã tạo thành y. Trong Đức Giêsu, chúng ta thờ lạy Đấng đang có, trước đây vốn có, và đến trong thế gian (Mạc khải 4, 8), nghĩa là Đấng hiện hữu ngoài thời gian, đã có trước hết mọi khởi đầu, do Người mà muôn vật được tạo thành. Lễ Giáng Sinh tức lễ Nhập Thể cho thấy một sự tự ý hạ mình nào đó của Thiên Chúa. Để làm nổi bật sự tương phản giữa tất cả và hư vô. Chúng ta được mời hãy ý thức lại về thân phận thụ tạo của mình hãy thờ phụng Thiên Chúa đã tạo thành chúng ta. Thiên Chúa là Đấng tự hữu, Người không được tạo thành- phần chúng ta, chúng ta đã được tạo thành. Vì thế, chúng ta phải suy tư và hành động theo chiều nghĩ: nhờ Thiên Chúa mà chúng ta có được mọi sự.
2) Nhờ Đức Giêsu, chúng ta thờ lạy trong tâm trí và trong sự thật. Một trong những diện chủ yếu và bi kịch nhân loại là con người thường nhiều phen lầm lạc trong khi thờ phụng. Luôn luôn con người bị cám dỗ thờ ngẫu tượng. Tại sao? Vì lẽ, nếu không có Đức Kitô thì nhân lại chỉ còn biết dò đường trong đêm tối – trí tuệ bị u ám, trái tim chán nản hết sinh động. Thế mà Đức Kitô là Ánh sáng. Người là Sự Sống, và sự sống là Ánh sáng nhân loại. Thờ phụng cách linh hoạt giống như tâm hồn tiến bước trên đường tới đích là Thiên Chúa. Phải được soi sáng mới khỏi lạc đường. Đức Kitô- Anh sáng soi sáng trí tuệ con người và chỉ con người thấy đường đi của số mệnh y.
Ánh sáng và sự sống liên kết với nhau. Kẻ thờ các ngẫu tượng (khoái lạc, danh vọng, tiền của, thế gian) thì dò dẫm trong bóng tối linh hồn, và hiến mình cho những vật chết. Cách vô hình, và nhiều phen thật bất hạnh cho y, kẻ ấy liên kết trong tâm hồn bóng tối và sự chết. Trái lại, người nào tiếp nhận ánh sáng, tức quy tắc về Chân Lý, do niềm tin vào Đức Kitô phát ra, người ấy liên kết trong tâm hồn Ánh sáng và sự sống.
Lễ Giáng Sinh mừng ánh sáng. Trong khi vui ngắm những giây đèn giăng mắc ngoài đường phố và trong tư gia, chúng ta hãy nhớ đến sự cần thiết hàng đầu là làm thế nào để Ánh sáng Đức Kitô soi sáng lòng và trí chúng ta.[Mục Lục]
(Bài giảng thánh lễ đêm Giáng Sinh 2013 của Lm. Jos. Trương Đình Hiền)
Kính thưa Ông Bà Anh Chị em giáo dân, Kính thưa Quý Vị và các bạn ngoài Kitô giáo,
Trước hết, thay mặt cho bà con giáo dân giáo xứ Quảng Ngãi, giáo hạt Quảng Ngãi, tôi xin được trân trọng gởi đến quý vị không có chung niềm tin Kitô đang có mặt ở-đây-giờ-nầy lời cám ơn chân tình và lời chúc mừng Giáng Sinh tốt đẹp và trân trọng nhất.
Tôi muốn dành những lời đầu tiên nầy để chia sẻ cùng quý vị không cùng niềm tin với chúng tôi. Chúng tôi cám ơn quý vị, quý bạn đã đến đây để chia sẻ niềm vui Giáng Sinh với chúng tôi, để tham quan ngôi từ đường của đại gia đình kitô hữu Quảng Ngãi, để chiêm ngắm Hài Nhi Giêsu trong máng cỏ, để nghe những bài thánh ca Noel, để lòng lắng đọng trước một đôi gợi ý của Kinh Thánh về huyền nhiệm đức tin Kitô,… và đối với các bạn trẻ hoặc một số người, Giáng Sinh còn mang theo cả một trời kỷ niệm, kỷ niệm của những mối tình đầu thơ mộng, mà bài hát “Hai Mùa No-en” của Ns Nguyên Vũ đã phần nào diễn tả:
Mùa Noel đó chúng ta quen bên giáo đường
Mùa Noel đó anh đón em vào tình yêu
Quỳ bên hang sâu nghe lời kinh thánh van cầu
Nhìn nhau không nói nên câu
Vì biết nói nhau gì đâu…
Với chúng tôi, những người Công Giáo của miền Núi Ấn-Sông Trà, quả thật đây là dịp duy nhất trong một năm, chúng tôi được đón tiếp quý vị như những vị khách quý để có thể chia sẻ với quý vị đôi điều về niềm tin của chúng tôi, để giới thiệu đôi nét đan thanh về Chúa Giêsu, mà với niềm xác tín của những người Kiô hữu chúng tôi, là Đấng Cứu Độ duy nhất, một Đấng mà chắc chắn quý vị còn rất mù mờ, có khi được hiểu cách lệch lạc và rất nhiều khi được thông tin với một ý đồ không mấy thiện chí, nếu không muốn nói là xuyên tạc và thù nghịch.
Đặc biệt năm nay, Năm mà Giáo Hội Công Giáo muốn các gia đình đem Tin Mừng hiện thực trong chính mái ấm của mình, tôi xin được chia sẻ cùng cônghj đoàn Kitô hữu và toàn thể quý vị một khía cạnh, một ý nghĩa đặc biệt về Chúa Giêsu và về cuộc Giáng Sinh của Ngài:
Chúa Giáng Sinh: Nụ hôn nồng nàn của Thiên Chúa.
Để minh họa cho ý nghĩa nầy, tôi xin được kể một câu chuyện nhỏ mang tựa đề: NHỮNG NỤ HÔN TRONG CHIẾC HỘP RỖNG.
Gia đình nghèo và việc chi tiêu rất eo hẹp. Nhưng cô bé lại dùng cuộn giấy gói xa xỉ đó chỉ để bọc một cái hộp đặt dưới gốc cây thông Nô-en. Người cha tỏ ra vô cùng giận dữ trước sự phí phạm của con gái. Mặc dù vậy, buổi sáng hôm sau, cô bé vẫn mang hộp quà đó tới trước mặt cha và hớn hở nói: “Cha ơi, con tặng cha món quà Giáng sinh!”. Người cha cảm thấy vô cùng bối rối bởi phản ứng thái quá trước đó của mình: Cô con gái nhỏ dù sao cũng chỉ muốn một hộp quà bọc gói thật đẹp để tặng cha. Nhưng khi mở gói quà ra, nụ cười vừa nở trên môi ông đã tắt lịm. Trước mắt ông chỉ là một chiếc hộp rỗng! Nhìn thẳng vào mắt con gái, người cha quát rất to: “Con không biết điều này hay sao? Khi con tặng quà ai đó, chắc chắn phải có gì đó bên trong gói quà!”. Cô bé nước mắt giàn giụa nhìn cha và nói: “Không, cha ơi. Chiếc hộp con tặng cha có rỗng đâu. Con đã thổi rất nhiều nụ hôn vào đó. Tất cả những nụ hôn đó con dành tặng cha mà.”…
Một thời gian ngắn sau đó, tai nạn xảy ra cướp đi cuộc sống của cô bé dễ thương. Còn người cha vẫn giữ bên mình chiếc hộp bọc giấy vàng tuyệt đẹp nhiều năm sau đó.
Và bất cứ khi nào ông cảm thấy tuyệt vọng, chán nản, ông đều lấy chiếc hộp ra và hình dung đến con gái bé bỏng yêu thương đang ôm và thơm vào má cha – những nụ hôn trong chiếc hộp ngọt ngào…
Kính thưa ông bà và anh chị em,
Phải chăng, ý nghĩa đầu tiên và sâu sắc nhất của mầu nhiệm Thiên Chúa Giáng Sinh chính là “Chiếc hộp bằng vàng chứa đựng nụ hôn tình yêu của Thiên Chúa dành cho nhân loại, cho mỗi người chúng ta”, đúng như lời khẳng định trong Tin Mừng Thánh Gioan:
“Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16).
Vâng, chúng ta chỉ hiểu được, chỉ chấp nhận được mầu nhiệm Giáng Sinh nầy trong chiều kích TÌNH YÊU, trong ý nghĩa tình yêu.
– Giáng sinh: đó là tình yêu của Thiên Chúa
– Giáng sinh: đó là tình yêu của Thiên Chúa hiện thực trong lịch sử con người.
– Giáng sinh: đó là tình yêu của Thiên Chúa được thể hiện cách trọn vẹn và hết mình.
– Giáng sinh: đó là cách thế để Thiên Chúa dạy cho con người biết thế nào là yêu thương và phải đáp trả tình yêu dành Ngài và cho nhau phải được thể hiện làm sao.
Thi sĩ linh mục Trăng Thập Tự đã cảm nhận sâu xa ý nghĩa nầy trong bài thơ Tại Sao mà xin được trích ra đây đôi dòng tiêu biểu:
Còn Ngài yêu con, Ngài đã làm người
Để có thể khóc, để có thể cười,
Để có thể chết thay con mà chuộc tội,
Và nhờ đó con hiểu thế nào là tội lỗi,
Thế nào là lòng Chúa thương yêu.
Để con hiểu ra vẽ diễm kiều
Khi được làm người, khi được làm con Thiên Chúa.
Lạy Đấng Cứu Thế, là Trời, là Tạo Hóa,
Chiều nay trên thập giá,
Chúa có ân hận đã làm người?
Con hỏi và con tự trả lời
Khi con đã biết
Ngài yêu là yêu cho đến đời đời kiếp kiếp
Lạy Thượng Đế làm người, lạy Chúa Giêsu
(Trăng Thập tự, “Có ai về Cát Minh”, Bài “Tại Sao”, tr.184-186)
Thiên Chúa vẫn tiếp tục giáng sinh trong thế giới nầy.
Tuy nhiên, trong đêm nay cũng có kẻ sẽ tự nói rằng: Giáng Sinh đó là câu chuyện huyển tưởng của bọn Kitô giáo, có liên hệ gì đến mình đâu.
Không có liên hệ đấy quý vị. Chỉ cần 6 ngày nữa, khi tấm lịch cuối cùng ngày 31 tháng 12 năm 2013 được xé bỏ để bắt đầu tờ lịch mới 1.1.2014, cũng đã nói với quý vị rầng: Ngày sinh của Chúa Giêsu mà hôm nay chúng ta mừng kính đã được chọn làm cột mốc của khởi đầu cho Công lịch. Kể từ năm sinh của Ngài đến hôm nay đã được 2013 năm.
Nhưng điều chúng ta cần dừng lại đó lại là ý nghĩa tâm linh và chiều kích nhân sinh, xã hội mà mầu nhiệm Giáng Sinh mang đến cho con người.
Chúng tại phải trở về với lời Kinh Thánh, đặc biệt sứ điệp Tin Mừng được công bố hôm nay để tìm những chỉ dẫn cho những ý nghía nầy:
Bài Tin mừng Luca, với giọng văn lịch sử mang phong cách Hy lạp, tác giả Luca đã làm bật nổi biến cố Giáng Sinh với những lời và bối cảnh thật ấn tượng: “Trong vùng ấy có những người chăn chiên sống ngoài đồng…bổng sứ thần Chúa trong vinh quang sáng láng hiện ra loan báo rằng: “Anh em đừng sợ. Nầy tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là niềm vui cho toàn dân: là hôm nay, trong thành vua Đa-vít, Đấng Cưứ thế đã giáng sinh…”
Với những lời tiên báo đó, với những sứ điệp vui mừng và hy vọng về một Đấng Cứu thế ra đời đó, quả thật loài người đã tìm được điều gì nơi Đấng Cứu Thế giáng sinh cách đây 2013 năm ?
Thật trái với mong đợi của bao khát vọng trần tục của loài người.
– Thay vì một hoàng tử sinh ra trong gác tía lầu son, Đấng Cứu Thế lại là một em bé sinh ra trong hang lừa máng cỏ.
– Thay vì một Đế vương chấp chính oai phong trên ngai vàng lẫm liệt, Đấng Cứu Thế lại được Chúa Cha giới thiệu với loài người đang khi chen lẫn giữa đám dân đen tụ tập cùng nhau sám hối bên bờ sông Gio-đan.
– Thay vì công bố giữa triều đình oai nghi những đề cương kinh tế chính trị xã hội bài bản, Đấng Cứu thế lại rao giảng một Tin Mừng “Tám Mối Phúc Thật” chỉ thích hợp cho những kẻ nghèo khổ bất hạnh.
– Thay vì chinh phạt với vó ngựa, gươm đao để mở rộng cõi bờ, sát phạt muôn dân, Đấng Cứu thế lại chủ trương “phúc cho ai xây dựng hòa bình, phúc cho ai bị bách hại vì chính đạo…”
– Thay kéo bè kết cánh với những thế lực uy quyền và giàu có, Đấng Cứu thế lại giao du thân mật với những người nghèo, kẻ bất hạnh và chọn lựa những kẻ thất học, dân chài vai u thịt bắp để làm môn sinh và xây dựng. Giáo Hội
– Thay vì đăng quang chấp chánh trên ngai vàng lẫm liệt bắt muôn dân sấp mặt cuối đầu thì Đấng Cứu thế lại chấp nhận một bản án bất công và chịu tử hình Thập Giá, một cái chết dành riêng cho hàng nô lệ, giữa những người tội lỗi…
Và phải chăng, đó chính là ý nghĩa cuối cùng của mùa nhiệm Giáng Sinh, mầu nhiệm EMMANUEL, “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”.
Quả thật, sự xuất hiện và cuộc đời của Chúa Giêsu, Đấng Cứu thế mãi mãi là một thách đố để chúng ta tin nhận, là một huyền nhiệm để chúng ta đi tìm. Nếu hôm nay, chúng ta đến đây, chúng ta cử hành mầu nhiệm Giáng Sinh nầy, chúng ta tìm kiếm một “Ông Giêsu” chỉ với mục đích là được no cơm ấm áo, chỉ với một ước nguyện là được tiền tài danh vọng và những bảo đảm vật chất, chỉ với một mưu cầu là đạt được những mưu đồ chính trị…thì có lẽ chúng ta sẽ ra về trong thất vọng. Bởi vì Tin Mừng Giáng Sinh, Chân lý của Đức Kitô, con đường nhân sinh của Kitô giáo không đề nghị cho chúng ta những giải pháp trần tục đó, những hứa hẹn vật chất chóng tàn đó. Bởi vì Đức Kitô và Tin Mừng của Ngài tuyệt đối không phải là một ý thức hệ, một chủ nghĩa, một học thuyết chính trị-kinh tế, cho dù đã có không ít đề nghị, chủ trương Ngài là Nhà Cách mạng vô sản, Ngài là lãnh tụ của thành phần dân nghèo đứng lên đòi quyền giả phóng…. Bởi vì Chúa Giêsu hôm qua, hôm nay và mãi mãi duy nhất là Đấng Cứu Độ, là Đấng, như lời kinh thánh “ trong Bài đọc 2 vừa được công bố hôm nay “đã tự hiến để cứu chuộc chúng ta cho thoát khỏi mọi điều bất chính, và để thanh luyện chúng ta khiến chúng ta thành dân riêng của Người, một dân hăng say làm việc thiện” (BĐ 2), là Đấng qui tụ nhân loại thành anh em trong gia đình Thiên Chúa để dẫn tất cả vượt qua kiếp sống trần gian tiến về hạnh phúc vĩnh hằng.
Tin và đón nhận Đức Ki-tô đó chính là không ngừng khám phá và gặp gỡ chính Ngài đang hiện diện thật sự trong thế giới nầy, trong nhân loại nầy, đặc biệt, Ngài hiện diện trong những con người bé nhỏ khó nghèo, bị chà đạp, bị tổn thương, bị vất bỏ bên vệ đường xã hội…
Câu chuyện trong kho tàng khôn ngoan của Ấn Độ sau đây đã phần nào diễn tả ý nghĩa nầy:
“Có một vị linh sư Ấn giáo và các môn sinh ngồi quây quần bên một bếp lửa hồng. Sức nóng của than hồng và hơi nóng của từng người làm cho căn phòng ấm hẳn ra….Nhưng bổng chốc, vị linh sư già run lập cập, môi ông bập bẹ không nói ra lời. Các môn sinh lo lắng cho sức khỏe của thầy: “Thưa thầy, chắc thầy yếu trong người, chúng con xin phép được cho thêm củi vào lò sưởi”. Trong cơn thổn thức, vị linh sư già cố gắng nói từng tiếng: “Lửa và sức nóng trong căn phòng nầy quá đủ cho ta…Ta cảm thấy lạnh là bởi vì bên ngoài có một người hành khất đang run lập cập”. Quả thật, đúng như lời của vị thầy, các môn sinh đã mở cửa và nhìn ra ngoài, và họ đã tìm thấy một người hành khất đang rét run vì đói và lạnh….Họ đưa ngươi đó vào trong căn phòng, săn sóc cho anh và từ giây phút ấy, vị linh đạo sư cũng trút bớt nổi rét run của mình…”
Kính thưa cộng đoàn và toàn thể ông bà anh chị em,
Trong năm vừa qua, chúng ta đã ghe biết và chứng kiến bao nhiêu đau thương, tệ nạn liên tiếp xảy ra trong các gia đình Việt Nam chúng ta. Từ vụ xác của chị Lê thị Huyền bị bác sĩ thẩm mỹ Cát Tường ném xuống sống Hồng Hà cho đến hành vi chém và đốt xác người yêu tại Đà Nẵng hay sự kiện người bảo mẫu hành hạ đến chết trẻ em được giao chăm sóc…thì quả thật, sứ điệp Giáng Sinh hôm nay quả thật cần thiết biết bao ! Cần thiết biết bao cuộc nhập thể giáng sinh của Ngôi Lời trong mọi cơ cấu của xã hội để hoán cải , để chữa lành, để phục sinh, như chính lời của Đức Thánh Cha Phanxicô đã cắt nghĩa trong bài huấn dụ trước lễ Giáng Sinh ngày 18.12.2013 tại Quảng trường Rôma:
“Lễ Giáng Sinh của Chúa Giêsu biểu lộ cho thấy Thiên Chúa đã đứng về phía con người một lần cho tất cả, để cứu vớt chúng ta, để nâng chúng ta dậy từ bụi đất của các nỗi bần cùng, khó khăn và tội lỗi của chúng ta. Từ đó phát xuất ra món quà vĩ đại của Hài Nhi Bếtlehem: một năng lực tinh thần giúp chúng ta không chìm sâu trong các mệt nhọc, thất vọng, buồn sầu của chúng ta; bởi vì nó là một năng lực sưởi ấm và biến đổi con tim. Thật thế việc sinh ra của Chúa Giêsu đem đến cho chúng ta một tin vui: đó là chúng ta được Thiên Chúa yêu thương vô cùng và một cách đặc biệt, và tình yêu này Ngài không chỉ làm cho chúng ta nhận biết, mà còn ban tặng và thông truyền nó cho chúng ta nữa! “
Kính thưa ông bà và anh chị em,
Trong mùa Giáng Sinh nầy chúng ta đã từng nhận được rất nhiều cánh thiệp chúc mừng Giáng Sinh cùng với những lời chúc tốt đẹp, và chắc chắn ai trong chúng ta cũng ước mơ những lời chúc ấy sẽ trở thành hiện thực. Riêng tôi, tôi ước mong anh chị em phải biến cuộc đời mình, gia đình mình, cộng đoàn mình thành Tin Mừng Giáng Sinh, thành một Quà Tặng Sự sống, quà tặng của sự trung thành và hy sinh trong mái ấm gia đình, quà tặng của yêu thương và phục vụ ở giữa cộng đoàn, quà tặng của bác ái vị tha với mọi người chung quanh, quà tặng của bao dung tha thứ dành cho những người ghét ghen đố kỵ và xúc phạm đến mình. Chắc chắn, khi có được những quà tặng như thế, chúng ta sẽ nhận được “chiếc hộp vàng đựng nụ hôn chúc phúc của Chúa Hài Nhi Giêsu”, nụ hôn của niềm vui và an bình, nụ hôn của tin yêu và hạnh phúc hôm nay để dẫn dắt chúng ta đi trót cuộc hành trình dương thế để nhận được nụ hôn của Ba Ngôi Thiên Chúa trong hạnh phúc vĩnh hằng. Bởi vì, đó chính là lời chúc mà các thiên sứ đã hát lên trong đêm Giáng Sinh đầu tiên ở Bê-lem: ”Vinh Danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người Chúa thương” ; và đó cũng chính tiêu đích của cuộc Nhập thể – Giáng sinh mà chính Chúa Giêsu đã từng khẳng định: “Ta đến để chúng được sống và sống phong phú”. Amen.[Mục Lục]
Bài mở đầu Phúc Âm thánh Gioan phong phú đến nỗi đã làm đề tài cho không biết bao sách vở dày cộm. Nếu đọc với sự chăm chú và niềm kính trọng như khi người ta bước qua ngưỡng cửa một người mời mình vào nhà, thì người ta hô hấp ngay cái bầu không khí của toàn cuốn Phúc Âm thánh Gioan. Ở đây ta thấy sự đối nghịch giữa ánh sáng và bóng tối, ta gặp đề tài chứng tá và sự rao giảng về việc con người được nâng lên hàng làm con Thiên Chúa nhờ Con Một Người đã đến và ngự giữa chúng ta. Danh từ ánh sáng lặp đi lặp lại nhiều nhất. Tương tự như ánh sáng đối với sinh vật, Thiên Chúa là nguồn chân lý và sự sống cho con người. Người là ánh sáng ở một trình độ cao hơn ánh sáng tự nhiên bội phần. Ánh sáng này cũng là một hồng ân Chúa ban cho vũ trụ vật chất, trở nên dấu hiệu của cái thực tại thiêng liêng cao trọng là làm cho con người đạt tới một trình độ ở đó nó có thể nói tới Chân Lý sung mãn, đến sự sống vĩnh cửu. Lễ Giáng Sinh khởi đầu một tấn bi kịch. Tấn bi kịch ấy đặc biệt là của dân Do Thái, song còn tiếp tục diễn ra nơi mỗi người. Ánh sáng đã đến nơi người nhà của mình, nhưng nhiều người đã không tiếp nhận ánh sáng. Bóng tối đã không thể và hiện không thể nào thắng được nó nhưng bóng tối vẫn là một mối đe dọa đáng sợ giữa lòng nhân loại. Ánh sáng Đức Kitô đến tiêu diệt tối tăm như thế nào?
1) Đức Kitô đánh tan mê muội.
Tự mình chúng ta hầu như không biết gì về Thiên Chúa. Đấng Con Một ngự trong lòng Chúa Cha, chính Ngài đã mặc khải Thiên Chúa. Không có Chúa Giêsu Kitô, chúng ta sẽ sống trong một sự vô minh dày đặc. Không trực giác nào về Chúa, dù đẹp đẽ nhất, đã có thể vượt qua ranh giới của con người, bởi vì cái cốt yếu nằm bên kia ranh giới ấy. Trí khôn nhân loại nào đã dám nói đến việc trở nên con cái Thiên Chúa như Phúc Âm bao giờ đâu? Một câu hỏi: chúng ta có tỉnh táo để không cho bóng tối che mờ ánh sáng chăng? Đâu là những điều thu hút tư tưởng và khả năng yêu thương của ta? Người Kitô hữu ngày nay khám phá lại được tầm quan trọng của cái thực tại trần thế. Nhưng họ có lưu tâm đủ về đòi hỏi tôn giáo sâu xa mà chỉ trong Đức Kitô mới tìm được giải đáp hay không? Thời đại ta, hay đúng hơn Giáo Hội chúng ta cần phải nhớ rằng không có Đức Kitô, mà ta phải tìm kiếm như một cùng đích, thì mê muội như một màn sương mù sẽ lại phủ xuống trên thế gian. Ánh sáng tiếp tục chạm trán với tối tăm và cái giá trị vẫn còn sống động trong Giáo Hội, và trong đời sống mỗi người chúng ta, ấy là giá trị chiêm niệm.
2) Đức Kitô soi sáng cho ta biết đánh giá con người.
Khi tuyên bố mọi người đều được gọi làm con Thiên Chúa, Đức Kitô mở ra cái bề sâu của những tương quan liên kết con người với nhau. Những tương quan ấy có một định luật là bác ái, là tình yêu. Tình yêu anh em giữa người và người làm nên sợi dây đỏ rực, tỏa sáng nếu được đặt dưới luồng điện của tình yêu Thiên Chúa.
Ai yêu anh em, kẻ ấy ở trong ánh sáng (lGa 2,10). Một tình yêu đích thật giữa người Kitô hữu với nhau và của người Kitô hữu với mọi người, đó phải là ánh sáng mà họ có sứ mệnh mang đến cho thế gian hôm nay. Trong mức độ mà nó tinh tuyền, nó sẽ gặp phải sức chống đối của tối tăm, nhưng kẻ nào đón nhận nó, sẽ đi trên con đường trở nên con cái Chúa.[Mục Lục]
(Suy niệm của Lm Uyên Nguyễn – Lễ đêm Giáng Sinh)
‘Tôi loan báo cho anh em một
Tin Mừng trọng đại, là niềm vui cho toàn dân’.
Trong đời, tưởng chừng không gì bất tử với lòng người nhân loại hay thay đổi. Tuy nhiên vẫn có những điều trường tồn ngoài sự suy đoán? Lạ lùng hơn là những việc xem ra dưới mức bình thường, trong âm thầm, quạnh quẽ, dần qua thời gian đã nên rạng ngời vinh quang, lưu tồn bất tận. Những sự kiện như vậy thường không là ngẫu nhiên, cũng vì tự tại đầy sức toả sáng, bất tử, huy hoàng giữa nhân loại.
Xem ra không mấy sự lạ lùng được như vậy, ngoại trừ biến cố được gọi là Giáng Sinh hay còn gọi là Noen. Lần theo tường thuật của Luca được GH trích đọc trong đại lễ truyền thống trọng trị tràn ngập hân hoan đêm nay, không thể không nhận ra những gì đã gây nên ấn tượng tôn vinh khó phai trong lòng nhân loại từ sự kiện Giáng Sinh trải qua bao thế hệ!
Điều thứ nhứt, Giáng sinh là ‘con đường’ làm người của Ngôi Con TC. Con đường hiện diện để yêu thương, hiện diện cho nhân loại, cho đời. Để là vậy, Người trải qua con đường chung của bất cứ ai được sinh ra làm người, nghĩa là cũng thụ thai, cũng được sinh hạ. Tuy nhiên quá trinh sinh làm người của con TC được phủ bóng quá giản đơn, phút chốc, có gì đó dưới thấp hèn. Sinh ra trong thời điểm mọi người vâng lệnh hoàng đế Augustô trở về quê hương để tuân hành pháp lệnh kiểm tra dân số. Người mẹ đang đến thời mãn nguyệt khai hoa, không tìm được nơi tá túc giữa lòng Thành Phố chật ních người. Theo đó, Luca tường thuật bằng một chất giọng nao nao tình trong cảm kích trọng thị: “Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tả bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ”( c.7). Luca cố tình dùng những cụm từ quen thuộc gần gũi đời thường: dành cho những người có gia cảnh bé mọn, lãng quên giữa phố chợ phồn hoa. Bà sinh con trai, lấy tã bọc, đặt nằm trong máng cỏ, vì không tìm được chỗ. Luca tự mình tra vấn: là con TC sinh hạ ư? Sao quá giản tiện, đơn hèn, bất đắc dĩ vì hoàn cảnh hay vì thâm ý? Mà Con TC được Tin Mừng Gioan gọi là Lời, Lời của TC Cha. Nếu TC như Gioan định tín: “TC là Tình Yêu”. Vậy Tình Yêu với vai trò diễn tả tình yêu Chúa Cha bằng Lòi tự tỏ bày như thế ư? Quả quyết vậy, chắc cũng không sai, bởi ngạn ngữ nói: “Đầu xuôi đuôi lọt”, cả cuộc đời với vai trò Con TC cứu độ đã theo đuổi cách sống không có gì là rạng rỡ như thế từ khởi sự cho đến trọn 33 năm hoàn tất nhân sinh! Sinh không vinh quang, chết cũng không rõ vinh quang. Tuy nhiên lẽ sinh, lẽ chết, ý nghĩa và hành vi cống hiến cho đời mới là cứu cánh định giá khác biệt để mới có thể gọi là sinh trong cùng đinh để chết đat đỉnh vinh quang tối hậu. Thế mới biết đâu là Lời của TC Cha, Lời vâng phục Chúa Cha, đã vì để trở nên cứu cánh nhân loại phải là thế?!
Điểm thứ hai, một biểu trưng cho một dáng vóc của tột cùng thấp hèn. Trước nhãn giới mang tính thèm khát cao vọng hồn nhiên của con người, Con TC sinh ra như thế được kể là thấp hèn. Thực chất không là thấp hèn mà là một TC tự hạ để sau này trên đường đi loan báo TM, giữa cuộc sống đời trần đầy dẫy ganh ghét, bon chen, dẫm trèo lên nhau, trong chân tình, Người dạy: “Hãy mang lấy ách của tôi và hãy học cùng tôi, vì tôi hiền lành và khiêm nhường”( x.11,29). Vậy ở đây chắc chắn không phải là thấp hèn mà phải được nhìn nhận và tôn vinh là khiêm hạ. Con TC khiêm hạ vì Người bằng lòng hoá thân tự hạ để khả thi thực hiện điều được gọi là ‘nhập thể’, nên một giữa khối nhân loại bởi Người mà được tạo thành. Thấy rõ hơn về điều ấy, khi được đọc lại những gì Luca viết nêu giãn dị đôi nét về lai lịch vị trí sinh hạ: “Trong vùng ấy, có những người chăn chiên sống ngoài đồng và thức đêm canh giữ đàn vật” (c.2,8). Sinh ra trong vùng, giản đơn là nơi nào đó trên cánh đồng chỉ có những người chăn chiên đêm đêm thao láo mắt thức canh đàn vật.
Những người chăn chiên là ai? Phẩm vị họ cao thấp, được tôn trọng hay, trước tâm khảm những ai khác họ, có bị nhìn là những kẻ đáng khinh vì bị liệt vào hàng thấp hèn không ít lần phạm phải hành vi trộm cướp cắp? Dẫu vậy, chính họ là những người mà Luca trong tường thuật, là những kẻ ưu tiên được diễm phúc, ưu tiên đón nhận tin mừng, ưu tiên được loan báo tin vui cho toàn dân, ưu tiên đi xem sự việc, ưu tiên chiêm ngưỡng và thực sự là những nhân chứng tiền thân. Xem ra là vậy! nên có thể hỏi tình thương đích thực mang đến ban phúc, đã thực hiện theo quá trình nào, khởi sự từ cao trọng xuống thấp hay từ thấp hèn lên cao trọng? ở đây xem ra Tình thương con TC làm người mang diễm phúc cho đời không theo quy trình hành xử như người đời mà bằng con đường độc lập của lòng ưu ái TC. Để xác quyết như vậy, qua tường thuật của Luca, sẽ rõ những gì mà nhóm những người này bộc lộ cho nhau:“ Nào chúng ta sang Belem để xem sự việc đã xảy ra, như Chúa đã tỏ cho chúng ta biết” ( c .2. 15). Luca cũng nói đến những cảm nghĩ của họ, bộc phát từ ơn lành, cho nhau: “Rồi các người chăn chiên ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng TC, vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ” (c.20). Cảm nghĩ của các kẻ chăn chiên là tin cẩn dấu lạ loan báo, xác tin vào tin vui loan báo, tin vào phúc mà họ bỗng dưng được ban từ trời giữa đêm buồn quạnh quẽ giá rét, lòng họ đầy hân hoan trong trào dâng cảm xúc ca ngợi và cảm tạ TC.
Phần chúng ta cảm nghĩ gì? Có phải Giáng Sinh không là vậy không là Giáng sinh, là Noen! Chắc là vậy vì mọi tình huống ấy đã được công bố từ khơi nguồn do lời và tiếng hát hoà vang nhiệm lạ của các ‘thần thiêng’ trên không trung trong đêm tịch liêu khuya khoắt, công bố cho hiện tại và cho cả mọi thế hệ tương lai! Thế nên điều tưởng chừng không giá, không nghĩa, lại đầy sức mầu khoác cho mình ánh sáng rực rỡ hấp dẫn, bùng lên vẻ vang qua mọi thời. Là như vậy, chỉ có là: Giáng Sinh, Noen. Bởi chính đó là Đấng cứu độ, Đấng mang lửa yêu thương từ trời cao ném vào băng giá trần gian, bằng con đường làm người trong và qua giản đơn, mọn hèn, để như lửa len mình vào mọi chất đốt đủ kích cỡ làm bùng lên cháy rực giữa cõi nhân sinh đang thênh thang chung lộn trên miền băng giá! Noen vậy, rất đáng cảm kích, không thể không huy hoàng rực rỡ ư? và sẽ không vẻ vang hơn như thế cho đến ngày cùng vũ trụ?!
Thân lạy Đấng là Hài nhi mới sinh! Con xin được ngợi khen và tôn vinh Danh Người, nguyện cho Danh Người luôn được cao sang. Xin cho Giáng Sinh bừng cháy lên trong tâm hồn mọi người giữa mọi dân nước. Xin đừng ai chưa hay không đón nhận được tin vui Giáng Sinh: là ơn cứu độ tuyệt hảo dành cho những ai thành tâm cũng cố dời mình đón nhận Giáng Sinh đầy hiệu quả và trọn vẹn![Mục Lục]
“Từ nguyên thủy đã có Ngôi Lời, và Ngôi Lời vẫn ở với Thiên Chúa, và Ngôi Lời vẫn là Thiên Chúa.” Chưa từng có một lời văn nào diễn tả về cuộc nhập thể của Chúa Giêsu một cách hào hùng và trang trọng như thế. Một Thiên Chúa toàn năng đã mặc lấy xác phàm loài người chúng ta. Ngài là sự sống và là ánh sáng thế gian (Ga 1,4). Thánh Gioan nói cho ta biết trong và qua Chúa Giêsu, Thiên Chúa mặc khải cho chúng ta về tình yêu của Ngài đối với nhân loại. Thế nhưng ở ngay giữa đoạn Thánh Kinh huyền nhiệm đó, chúng ta đọc thấy câu, “Ngài đã đến nhà các gia nhân Người và đã không được đón nhận.” Sau đó, Thánh Gioan lại tiếp, “Chúng tôi đã nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang Người nhận được bởi Chúa Cha, như của Người Con Một đầy ân sủng và chân lý” (Ga 1,14). Ở đây, Thánh Gioan nhấn mạnh về mầu nhiệm tình thương bao la của Thiên Chúa. Cho dù có bị chối từ, Ngài vẫn đến để trao ban tình thương cho chúng ta. Thánh Gioan đã viết tiếp rằng những ai đón tiếp Ngài thì Ngài ban cho họ được quyền làm con Thiên Chúa.
Ở đây, chúng ta hãy tự đặt ra cho mình một câu hỏi, “Làm sao để chúng ta có thể được quyền làm con Thiên Chúa? là công dân Nước Trời?” Câu trả lời chúng ta tìm thấy ngay trong Phúc Âm.
“Hãy để những trẻ nhỏ đến cùng Thầy”. Chúa Giêsu đã phán với các môn đệ. “Nước Thiên Chúa thuộc về những kẻ giống như chúng. Hãy tin Ta, nếu ai không đón nhận Nước Thiên Chúa giống như chúng thì chẳng được vào Nước Trời” (Lc 18:16-17). Thật đáng tiếc là trong cuộc sống thực tế, chúng ta đang phải cảm nghiệm những cực đoan của xã hội. Mừng Giáng Sinh không có nghĩa là chúng ta được giải thoát khỏi cái thế giới đầy hỗn độn này. Hôm nay chúng ta tụ tập nơi đây để chia sẻ niềm vui và nỗi khổ của nhau. Chúng ta không thể phủ nhận sự hiện diện của những thử thách và gian nan trong cuộc sống của mỗi cá nhân. Có lẽ một số các bạn bây giờ đang phải khổ não phiền muộn. Một số người trong chúng ta đang suy tư về sự hiện hữu của mình. Các nước đang chiến tranh với nhau. Nhiều người đang phải đói khổ. Những tên khủng bố đang ngầm phá. Các nước lớn đang dự trữ vũ khí nguyên tử để hăm dọa nhau. Thế nhưng giữa những điều tiêu cực đó, sứ điệp của Giáng Sinh nói với chúng ta rằng Thiên Chúa sẽ toàn thắng và sự dữ không thể thắng được Ngài. Không bao giờ!
Trong giây phút linh thiêng của ngày Lễ Giáng Sinh, các bạn hãy để cho tâm hồn mình mở rộng để bình an của Chúa đổ tràn vào. Hãy trở nên những trẻ nhỏ. Hãy thưa tiếng “Xin Vâng” với Thiên Chúa. Ngài sẽ làm tất cả. Ngài sẽ tẩy rửa và chữa lành chúng ta, và ban cho chúng ta sự sống mới. Ngài còn chỉ cho chúng ta con đường công chính dẫn đến ơn cứu độ. Ngài sẽ ban cho chúng ta sức mạnh để chúng ta có thể chu toàn nhiệm vụ của chúng ta.
Khi chúng ta còn đang nói về câu truyện Giáng Sinh, thì có lẽ chúng ta còn phải tưởng nghĩ đến một phần của câu truyện Giáng Sinh nữa là phần Đức Maria đang ngồi trên lưng con lừa đi bên cạnh Thánh Giuse trên con đường gồ ghề lởm chởm từ Galilêa đến Giuđêa. Khi đến Bethlehem, thì cả hai đều phải đối diện với một sự tủi khổ đó là cái nghèo. Chuyện xảy ra cách đây hai ngàn năm cũng đang xảy ra ngày nay. Nếu các bạn có tiền, các bạn có thể tìm được chỗ ở khách sạn, cho dù khách sạn đó có ghi câu “hết chỗ” (No Vacancy). Thánh Giuse và Đức Mẹ đều không có tiền nên cả hai đã đi ra cánh đồng và ở trọ trong một hang bò lừa. Sau khi sinh ra, Gia Đình Thánh Gia còn chưa được ổn định. Vua Hêrôđê đã lùng bắt Chúa Giêsu để giết, và cả ba Đấng Thánh lại phải chạy trốn sang Ai-Cập. Những chuyện bất công, lừa dối, giết chóc, kiêu căng, nghèo khổ… tất cả đều có đầy đủ trong câu truyện Giáng Sinh. Giáng Sinh không chỉ là một cuộc vui mừng đượm bằng những cây thông, gói quà, kẹo ngọt… nhưng là một sứ điệp rằng Chúa Giêsu đã xuống thế gian với chúng ta để chia sẻ cho chúng ta tình yêu bao la của Ngài. Tình yêu của Ngài ở với chúng ta trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời.
Xin các bạn hãy lãnh nhận lấy Chúa Hài Đồng để Ngài ban cho các bạn sức mạnh và tình yêu để các bạn có thể chia sẻ những ơn ấy cho người khác.
Xin kính chúc tất cả các bạn được an hưởng một mùa Giáng Sinh đầy tràn ơn bình an và hạnh phúc của Chúa Hài Đồng![Mục Lục]
“Thiên Chúa là Tình yêu: chính bản chất của Thiên Chúa là Tình yêu. Khi thời gian đã viên mãn, qua việc sai Con Một Ngài và Thánh Thần của Tình yêu, Thiên Chúa đã bày tỏ bí mật sâu xa nhất của mình: chính bản thân Ngài là một sự trao đổi đời đời của tình yêu Cha, Con, Thánh Thần, và Ngài muốn chúng ta thông phần vào tình yêu này”.
Hôm nay chúng ta cử hành biến cố vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại: Sinh nhật của Chúa Giêsu Kitô. Sự Giáng sinh của “Đấng Cứu Chuộc thế giới là trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và nhân loại, và chúng ta không thể được cứu độ nhờ Danh nào khác dưới gầm trời này”.
Sự Nhập Thể đó được diễn tả trong bài Phúc âm hôm nay: “Và Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta”. Theo tiếng Hy Lạp chữ “cư ngụ giữa chúng ta” có nghĩa là: “Thiên Chúa cắm lều của Ngài ở giữa chúng ta”. Biến cố vĩ đại này của Thiên Chúa đi vào lịch sử nhân loại trong con người của Hài Nhi Giêsu được gọi là sự Nhập Thể: Thiên Chúa mang lấy thân xác con người.
Nhà huyền bí Kitô giáo An Độ, Sadhu Sundar Singh, đã diễn tả mầu nhiệm Nhập thể của Chúa Giêsu Kitô qua câu chuyện được kể lại sau đây:
Xưa kia một ông vua có vị cố vấn, the Vizier, một người rất hiểu biết và thánh thiện. Đang khi hành hương trên đất thánh ở Palestine, the Vizier đã bị xúc động sâu xa vì câu chuyện của Chúa Giêsu Kitô. Ông đã xin trở thành một Kitô hữu, đã tin vào Đấng Cứu Thế, là Đấng đã đến thế gian để cứu chuộc những con người tội lỗi.
Khi trở về, vua đã thắc mắc và hỏi ông rằng: “Nếu tôi muốn làm bất cứ điều gì, tôi truyền lệnh cho đầy tớ của tôi thì việc đó được thi hành ngay lập tức. Vậy tại sao vị vua của các vua có thể cứu nhân loại bởi một lệnh truyền lại phải đích thân đến trần gian này và nhập thể làm người để làm gì?” Ông cố vấn xin vua cho một ngày ân huệ trước khi trả lời câu hỏi. Ông cho mời một người thợ mộc rất tài giỏi vào và yêu cầu phải làm một con búp bê, rồi mặc quần áo vào giống y đứa con trai một tuổi của nhà vua, và hôm sau phải mang nó đến cho ông.
Hôm sau, vua và ông cố vấn đang chèo thuyền đi chơi chung với nhau, vua yêu cầu ông phải trả lời câu hỏi. Cùng lúc đó, người thợ mộc cũng đã đến và đứng ở trên bờ sông với con búp bê hình nộm con trai của vua. Đứng dưới thuyền, vua trông thấy và nghĩ rằng đó là con trai của mình. Theo như những hướng dẫn đã được ông cố vấn dặn dò trước, người thợ mộc để cho con búp bê hình nộm rơi xuống nước. Thấy vậy, vua bèn lao xuống để cứu đứa bé đang bị chết chìm. Sau một lúc, ông có vấn mới nói: “Thưa đức vua, ngài không cần phải nhẩy xuống nước. Ngài ra lệnh cho quần thần làm không được sao? Tại sao chính ngài phải đích thân nhẩy xuống vậy?” Vua suy nghĩ một lát rồi trả lời: “Đó chính là câu trả lời tại sao, để cứu nhân loại, Thiên Chúa toàn năng đã nhập thể hóa thành con người thay vì thực hiện nó chỉ bằng một lời truyền mà thôi.
“Ngôi Lời trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta”. Giáo Hội dùng từ “Nhập Thể” để nói lên sự kiện Con Thiên Chúa đã mặc lấy bản tính loài người, để thực hiện ơn cứu độ ngay trong bản tính đó. “Nơi Chúa Kitô, chân lý của Thiên Chúa đã được bày tỏ cách trọn vẹn”. “Với sự Nhập Thể của Người, một cách nào đó Con Thiên Chúa đã nên một với mọi người”. Đó là cách biểu lộ tuyệt hảo tình yêu Thiên Chúa đối với con người.[Mục Lục]
Với mầu nhiệm xuống thế làm người, Thiên Chúa đã chia sẻ tất cả nhân tính của chúng ta, để chúng ta cũng được mời gọi tham gia vào thần tính của Ngài như Công đồng Vatican II quả quyết: “Người bày tỏ cho con người thấy bản chất đích thực của chính mình và khám phá ra ơn gọi cao cả của mình”.
Thánh Phaolô khuyên dạy chúng ta sống ơn gọi này theo gương Chúa Giêsu: “Anh chị em hãy có với nhau những tâm tình đã có nơi Chúa Giêsu Kitô: Ngài, với thân phận thần linh, đã không khư khư giữ lấy bậc ngang hàng với Thiên Chúa. Nhưng Ngài đã để mình ra hư vô, nhận lấy thân phận nô lệ và trở thành giống như một người. Và khi cư xử như một người, Ngài còn hạ mình hơn nữa bằng cách vâng phục cho đến chết, và chết trên thập giá”.
“Vương quốc Fanxica là một đất nước thái bình, thịnh vượng. Nhà vua và hoàng hậu lại có diễm phúc sinh được hai hoàng tử khôi ngô tuấn tú, văn võ song toàn và có khí phách dũng cảm của bậc anh hùng. Hai vị hoàng tử này lại thương yêu hòa hợp với nhau, đêm ngày gắn bó với nhau như hình với bóng.
Trong khi đó, vua nước láng giềng là một người cực kỳ nham hiểm và ác độc. Ông này nuôi mối căm thù với vua Fanxica bằng một mối thù truyền kiếp. Lòng căm thù của ông lại càng dâng cao khi thấy vua Fanxica có hai hoàng tử khôi ngô tuấn tú, vũ dũng hơn người, trong khi mình thì không có lấy một mụn con. Vì thế, ông rắp tâm hạ sát hai vị hoàng tử kia cho bằng được.
Vua độc ác biết hai vị hoàng tử thường hay vào rừng săn bắn, nên vua cho người mai phục, giăng bẫy bắt được hoàng tử em. Sau khi hay tin em mình bị mất tích trong rừng, hoàng tử anh một mình một ngựa xông xáo vào rừng tìm em. Không ngờ chính anh cũng bị vua độc ác giăng bẫy bắt được. Tên vua độc ác giam hai anh em vào hai ngục tối biệt lập nên hai hoàng tử không hề hay biết gì về người kia.
Theo thông lệ hằng năm, vào dịp sinh nhật của vua, vua cho tổ chức những cuộc quyết đấu giữa những con ác thú, để chúng phanh thây xé xác nhau làm trò vui cho quan quân và dân chúng. Năm nay, thay vì cho ác thú đấu nhau, nhà vua ác độc bắt hai tù nhân vạm vỡ khỏe mạnh, mỗi người mang một bộ da sư tử trên mình, đeo thêm mặt nạ sư tử, và buộc họ phải quyết đấu cho đến khi một trong hai người phải chết. Ai sống sót sẽ được trả tự do.
Cả đấu trường hò la vang dậy khi quân lính dẫn hai đấu thủ mặc lốt sư tử bước ra. Với thanh mã tấu trên tay, hai con người lốt sư tử xông vào nhau chiến đấu vô cùng ác liệt như hai ác thú say mồi. Đám đông cổ võ hò la vang trời dậy đất. Cuộc chiến kéo dài hơn cả tiếng đồng hồ mà vẫn bất phân thắng bại. Cả hai đấu thủ mệt nhoài, mình mẩy hai người đều đầy thương tích máu me… Nhưng không ai chịu nhường ai. Mỗi người đều dốc hết toàn lực để hạ đối thủ, để dành sự sống, để được trả tự do, để khỏi làm nô lệ suốt đời. Chỉ có chiến thắng hay là chết. Cuối cùng bằng sức mạnh và sự khéo léo, đấu thủ cao người hơn đã vung đao chém xoạc mặt đối phương, làm rơi mặt nạ sư tử, để lộ ra một khuôn mặt rất thân quen!
Anh kinh hoàng tột độ! Thanh mã tấu trên tay rơi xuống. Anh giật bỏ mặt nạ của mình ra. Hai anh em ồ lên kinh ngạc. Họ bàng hoàng nhận ra nhau. Không ai xa lạ, họ chính là anh em ruột thịt. Họ lao vào nhau, ôm chầm lấy nhau khóc nức nở. Họ đâu ngờ rằng đối thủ mà họ quyết tâm tiêu diệt cho bằng được lại là người anh em rất thân yêu.
Nước mắt tuôn tràn hòa chung với máu. Hai con người bầm dập, mình mẩy đầy máu me ôm nhau khóc tức tưởi. Khóc vì đã coi nhau như kẻ thù, đã đấu tranh với nhau như ác thú; khóc vì đã gây cho nhau bao vết thương đau. Họ vẫn đứng đó, ôm nhau khóc tức tưởi trước hàng ngàn cặp mắt bàng hoàng kinh ngạc của mọi người”.
Chính ma quỉ thù nghịch của Thiên Chúa đã gây nên mọi thứ tội lỗi trên trần gian. Ma quỉ đã đeo cho con người đủ thứ mặt nạ ác thú để chém giết lẫn nhau, và không còn nhận ra nhau là con cái Thiên Chúa nữa.
Chúa Giêsu Giáng sinh, Nhập Thể xuống trần gian để lột mặt nạ ác thú ra khỏi con người, để họ nhận ra nhau là con cái Thiên Chúa, là anh chị em với nhau. Ngài đến để cứu chúng ta thoát khỏi vòng tội lỗi, cạm bẫy gian tà của ma quỉ, khỏi lòng hận thù oán ghét nhau như Công đồng Vatican II diễn tả: “Tình yêu Thiên Chúa đối với chúng ta đã thể hiện trong việc Con Một Thiên Chúa đã được Chúa Cha sai đến thế gian, để một khi hóa thân làm người, Người tái sinh và đoàn tụ toàn thể nhân loại nên một bằng cách cứu chuộc họ”.
Bước vào thế kỷ 21, chúng ta đã chứng kiến những cuộc khủng bố và chiến tranh tàn bạo với những vũ khí tinh vi và kỹ thuật cao hơn. Ước gì chúng ta không đầu hàng bạo lực và oán thù. Nhưng sẽ là những sứ giả của hòa bình và tình yêu. Niềm vui Giáng sinh chính là niềm vui được giải thoát khỏi sự hận thù do ma quỉ mưu đồ.[Mục Lục]
Có thể bạn quan tâm
Thánh Lễ Thêm Sức Tại Giáo Xứ Đồng Troóc
Th11
Vlog Năm Thánh 1
Th11
Thư Gửi Anh Chị Em Giáo Chức Công Giáo Nhân Ngày Nhà Giáo..
Th11
Bế Mạc Tuần Tĩnh Tâm Năm 2024 Của Linh Mục Đoàn Giáo Phận..
Th11
Tháng 11 – Hiệp Thông Trong Tình Yêu
Th11
Chủ tịch Hội đồng Giám mục Nicaragua bị trục xuất sang Guatemala
Th11
VPTGM-GPHT: Thư Rao Truyền Chức Phó Tế
Th11
Sứ Điệp Ngày Thế Giới Người Nghèo Lần Thứ 8 Năm 2024
Th11
Những ước mơ của ĐTC Phanxicô trong Sắc chỉ công bố Năm Thánh..
Th11
Toà Thánh gửi sứ điệp nhân Ngày Thuỷ sản Thế giới
Th11
Suy Niệm Chúa Nhật XXXIII TN.B: Được Mừng Trọng Thể Lễ Các Thánh..
Th11
Ngày Thế Giới Người Nghèo: Đức Thánh Cha Phanxicô Sẽ Dùng Bữa Trưa..
Th11
Tại Sao Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ Sẽ Bỏ Phiếu Cho Một..
Th11
Vì Sao Người Trẻ Dấn Thân – Động Lực Hay Phản Lực?
Th11
Tám cách giúp con trẻ vượt qua nỗi mất mát người thân
Th11
Linh Mục Đoàn Giáo Phận Hà Tĩnh Khai Mạc Tuần Tĩnh Tâm Năm..
Th11
Những Nấm Mồ Biết “Nói”
Th11
Ngày 12/11: Thánh Josaphat, giám mục tử đạo
Th11
Thánh Lễ Ban Bí Tích Thêm Sức Cho 76 Em Tại Giáo Xứ..
Th11
Mở Án Phong Chân Phước Cho Sơ Clare Crockett
Th11