Suy Niệm Chúa Nhật XXVIII Thường Niên C : Biết Ơn Để Đón Ơn Cứu Độ

74 lượt xem

Chúa Nhật Tuần XXVIII – Mùa Thường Niên

Bài đọc 1    2 V 5,14-17

Ông Na-a-man trở lại gặp người của Thiên Chúa và tuyên xưng Đức Chúa.

Bài trích sách các Vua quyển thứ hai.

14 Thời ấy, ông Na-a-man, tướng chỉ huy quân đội của vua nước A-ram, mắc bệnh phong hủi. Vậy ông xuống dìm mình bảy lần trong sông Gio-đan, theo lời ông Ê-li-sa, người của Thiên Chúa. Da thịt ông lại trở nên như da thịt một trẻ nhỏ. Ông đã được sạch.

15 Cùng với đoàn tuỳ tùng, ông trở lại gặp người của Thiên Chúa. Ông vào, đứng trước mặt ông ấy và nói : “Nay tôi biết rằng : trên khắp mặt đất, không đâu có Thiên Chúa, ngoại trừ ở Ít-ra-en. Bây giờ, xin ngài vui lòng nhận món quà của tôi tớ ngài đây.” 16 Ông Ê-li-sa nói : “Có Đức Chúa hằng sống là Đấng tôi phụng sự, tôi thề sẽ không nhận gì cả.” Ông Na-a-man nài ép ông nhận, nhưng ông vẫn từ chối. 17 Ông Na-a-man nói : “Nếu ngài từ chối, thì xin cho phép tôi tớ ngài đây mang về một số đất vừa sức hai con lừa chở được, vì tôi tớ ngài sẽ không còn dâng lễ toàn thiêu và hy lễ cho thần nào khác ngoài Đức Chúa.”

Đáp ca    Tv 97,1.2-3ab.3cd-4 (Đ. x. c.2)

Đ.Chúa đã mặc khải ơn Người cứu độ trước mặt chư dân.

1Hát lên mừng Chúa một bài ca mới,
vì Người đã thực hiện bao kỳ công.
Người chiến thắng nhờ bàn tay hùng mạnh,
nhờ cánh tay chí thánh của Người.

Đ.Chúa đã mặc khải ơn Người cứu độ trước mặt chư dân.

2Chúa đã biểu dương ơn Người cứu độ,
mặc khải đức công chính của Người trước mặt chư dân ;
3abNgười đã nhớ lại ân tình và tín nghĩa
dành cho nhà Ít-ra-en.

Đ.Chúa đã mặc khải ơn Người cứu độ trước mặt chư dân.

3cdToàn cõi đất này đã xem thấy
ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta.
4Tung hô Chúa, hỡi toàn thể địa cầu,
mừng vui lên, reo hò đàn hát.

Đ.Chúa đã mặc khải ơn Người cứu độ trước mặt chư dân.

Bài đọc 2    2 Tm 2,8-13

Nếu ta kiên tâm chịu đựng, ta sẽ cùng hiển trị với Đức Ki-tô.

Bài trích thư thứ hai của thánh Phao-lô tông đồ gửi ông Ti-mô-thê.

8 Anh thân mến, anh hãy nhớ đến Đức Giê-su Ki-tô, Đấng đã sống lại từ cõi chết, Đấng xuất thân từ dòng dõi Đa-vít, như tôi vẫn nói trong Tin Mừng tôi loan báo. 9 Vì Tin Mừng ấy, tôi chịu khổ, tôi còn phải mang cả xiềng xích như một tên gian phi. Nhưng lời Thiên Chúa đâu bị xiềng xích ! 10 Bởi vậy, tôi cam chịu mọi sự, để mưu ích cho những người Thiên Chúa đã chọn, để họ cũng đạt tới ơn cứu độ trong Đức Ki-tô Giê-su, và được hưởng vinh quang muôn đời.

11 Đây là lời đáng tin cậy :

Nếu ta cùng chết với Người,
ta sẽ cùng sống với Người.
12Nếu ta kiên tâm chịu đựng,
ta sẽ cùng hiển trị với Người.
Nếu ta chối bỏ Người, Người cũng sẽ chối bỏ ta.
13Nếu ta không trung tín,
Người vẫn một lòng trung tín,
vì Người không thể nào chối bỏ chính mình.

Tung hô Tin Mừng    x. 1 Tx 5,18

Ha-lê-lui-a. Ha-lê-lui-a.

Anh em hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh,

đó chính là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Ki-tô Giê-su.

Ha-lê-lui-a.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.    Lc 17,11-19

11 Trên đường lên Giê-ru-sa-lem, Đức Giê-su đi qua biên giới giữa hai miền Sa-ma-ri và Ga-li-lê. 12 Lúc Người vào một làng kia, thì có mười người phong hủi đón gặp Người. Họ dừng lại đằng xa 13 và kêu lớn tiếng : “Lạy thầy Giê-su, xin dủ lòng thương chúng tôi !” 14 Thấy vậy, Đức Giê-su bảo họ : “Hãy đi trình diện với các tư tế.” Đang khi đi thì họ được sạch. 15 Một người trong bọn, thấy mình được khỏi, liền quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa. 16 Anh ta sấp mình dưới chân Đức Giê-su mà tạ ơn. Anh ta lại là người Sa-ma-ri. 17 Đức Giê-su mới nói : “Không phải cả mười người đều được sạch sao ? Thế thì chín người kia đâu ? 18 Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này ?” 19 Rồi Người nói với anh ta : “Đứng dậy về đi ! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh.”

Biết Ơn Để Đón Ơn Cứu Độ

Lm. Phaolô Phạm Trọng Phương

Một ông cụ 93 tuổi bị nhiễm Covid phải vào viện điều trị. Sau vài ngày, cụ bình phục. Khi cầm hóa đơn viện phí, cụ bỗng bật khóc. Bác sĩ lo lắng hỏi:

– “Cụ khóc vì chi phí quá cao sao?”

Cụ lắc đầu, đáp:

– “Tôi không khóc vì tiền, mà vì nhận ra mình đã vô ơn suốt 93 năm. Chỉ vài ngày phải trả tiền để được thở, tôi mới thấy ơn Chúa lớn lao biết bao, khi suốt cả đời Ngài cho tôi hít thở không khí, sống và yêu thương hoàn toàn nhưng không.”

Câu nói ấy khiến cả bệnh viện lặng đi.

Thật vậy, chúng ta thường chỉ nhận ra ơn Chúa khi mất đi điều gì đó. Mỗi hơi thở, mỗi ngày sống, mỗi người thân yêu đều là hồng ân.

Và như ông cụ 93 tuổi ấy đã học được: “Sống là nhận ơn, và biết ơn chính là cách ta đáp lại tình yêu Thiên Chúa.”

Trong cuộc sống hôm nay, chúng ta rất dễ quen với việc nhận, mà ít khi nhớ rằng phải biết ơn. Có người cho rằng những gì mình nhận được là đương nhiên và là xứng đáng. Nhưng trong nhãn quan đức tin, chúng ta phải tin nhận rằng mọi sự chúng ta có đều là hồng ân từ Thiên Chúa. Quả thật, chính thánh Phaolô đã nói: “Bạn có gì mà không do lãnh nhận? Nếu đã lãnh nhận, sao lại vênh vang như không lãnh nhận?” (1Cr 4,7). Vì thế, biết ơn không chỉ là phép lịch sự, mà là thái độ của người có đức tin, là con đường dẫn đến ơn cứu độ.

  1. Biết ơn là gì?

Theo từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn Ngữ Học đã định nghĩa: “Biết ơn là hiểu và nhớ công ơn của người khác đối với mình. Ví dụ: biết ơn người đã giúp đỡ mình. Tỏ lòng biết ơn”. Thật vậy, biết ơn là nhận ra rằng mình đã được yêu thương, được ban ơn và đáp lại bằng lòng trân trọng và hành động cụ thể. Hơn nữa, là người công giáo, chúng ta luôn nhớ rằng biết ơn không chỉ là nói “cảm ơn” bằng môi miệng, mà là sống tinh thần tạ ơn trong mọi hoàn cảnh. Nói cách khác, biết ơn theo ngôn ngữ Kinh Thánh đó chính là thái độ và hành vi ‘Tạ ơn’ đối với Thiên Chúa vì muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương. Chẳng hạn: Một đứa con biết ơn cha mẹ không chỉ nói lời cảm ơn, nhưng cố gắng học hành, sống ngoan, vâng lời và hiếu thảo. Một người Kitô hữu biết ơn Chúa không chỉ đọc kinh tạ ơn, nhưng phải biết sống công chính, yêu thương và quảng đại với tha nhân.

  1. Tại sao phải biết ơn Chúa?

Chúng ta luôn xác tín rằng cuộc đời chúng ta hiện diện nơi trần gian này đều là bởi ơn Chúa, đó là sự sống, sức khỏe, ơn gọi, gia đình, bạn bè và cả hơi thở ta đang có. Không có Chúa không có gì hết là vậy: “Vì không có Thầy, chúng con chẳng làm được gì” (Ga 15,5) hay “Đối với con người thì không thể nhưng đối với Thiên Chúa thì mọi sự đều có thể được” (Mt 19,26). Do đó, nếu Chúa ngừng yêu thương một giây thôi, ta sẽ trở về hư vô. Có Chúa mới có ta. Có Chúa mới có tất cả!

Cũng như ông Naaman trong bài đọc I: Ông là người ngoại bang, bị phong cùi, bệnh bị xem là hình phạt. Nhưng khi nghe lời ngôn sứ Êlisa, ông đã vâng lời tắm bảy lần trong sông Giođan và được khỏi. Điều đẹp nhất là ông quay trở lại để tạ ơn và tuyên xưng: “Từ nay tôi sẽ không còn thờ thần nào khác ngoài Thiên Chúa của Israel.” (2V 5,17). Ông Naaman đem quà tặng đến dâng cho vị tiên tri để tỏ lòng biết ơn nhưng bị Eelisa từ chối. Chi tiết này vị tiên tri muốn nhấn mạnh với ông Naaman là chính Thiên Chúa mới là nguồn ơn phúc mà ông đã lãnh nhận, còn ngài chỉ là khí cụ của Thiên Chúa mà thôi. Quả thật, ơn lành đã làm thay đổi con người ông: từ một người bệnh thành người có đức tin. Một bài học thật sự sâu sắc cho mỗi chúng ta về lòng biết ơn mỗi khi đã lãnh nhận điều gì đó.

  1. Biết ơn để đón nhận ơn cứu độ

Chúng ta đọc và suy gẫm đoạn Tin Mừng hôm nay kể câu chuyện 10 người phong cùi được Chúa Giêsu chữa lành. Cả 10 đều được khỏi, nhưng chỉ một người quay lại tạ ơn và người đó lại là người ngoại đạo. Chúa Giêsu hỏi: “Không phải cả mười người đều được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu?” Và Người nói với người biết ơn: “Lòng tin của con đã cứu con.”(x. Lc 17, 17- 19). Quả thật, Sách Giáo lý Hội Thánh Công Giáo số 2628 đã khẳng định: “Thờ lạy là thái độ đầu tiên của con người nhìn nhận mình là thụ tạo trước Đấng Tạo hóa của mình. Thờ lạy là tán dương sự cao cả của Chúa, Đấng đã dựng nên chúng ta à sự toàn năng của Đấng cứu độ, Đấng giải thoát chúng ta khỏi sự dữ…”.  Như thế, thái độ biết ơn, tạ ơn chính là thái độ thờ lạy mà con người phải dành cho Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh.

Qua hành vi của người phong cùi quay lại tạ ơn Đức Giê-su, chúng ta nhận ra một chân lý quan trọng: ơn thể xác ai cũng có thể nhận, nhưng ơn cứu độ chỉ dành cho ai biết tạ ơn. Mười người phong cùi đều được chữa lành thân xác, nhưng chỉ người Sa-ma-ri kia, người biết quay lại tôn vinh Thiên Chúa và tạ ơn, mới được ơn cứu độ, tức là ơn đức tin. Thật vậy, lòng biết ơn chính là khởi đầu của đức tin, vì ai nhận ra ơn lành mình lãnh được, người đó sẽ mở lòng để tin và yêu mến Thiên Chúa hơn. Và đức tin ấy lại là con đường dẫn đến ơn cứu độ. Trái lại, biết bao người trong cuộc sống hôm nay lại chọn sống vô ơn, quên đi nguồn cội của mọi phúc lành, kể cả ơn sự sống mỗi ngày.

  1. Hệ quả của vô ơn và phũ phàng

Thật vậy, người vô ơn không chỉ quên ơn, mà còn đánh mất tâm hồn khiêm tốn, vì họ nghĩ mọi sự là đương nhiên. Họ giống như chín người phong cùi kia, được khỏi bệnh, nhưng vẫn còn bệnh trong tâm hồn: bệnh vô ơn, tự mãn và dửng dưng. Phải chăng chúng ta cũng đang rơi vào tình trạng của 9 người kia? Bao lần chúng ta đã lãnh nhận đủ thứ hồng ân nhưng đối lại chúng ta đã vô tình hay hữu ý phớt lờ và bội nghĩa cùng Chúa cũng như với tha nhân.

  1. Sống tạ ơn trong đời thường

Qua hình ảnh và tấm gương biết ơn của ông Naaman và người phong cùi Samari, chúng ta được mời gọi hãy biết tạ ơn Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh, như lời Thánh Phaolô dạy: “Anh em hãy tạ ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh, vì đó là ý Chúa trong Đức Kitô Giêsu.” (1Tx 5,18). Tuy nhiên, lòng biết ơn không chỉ dừng lại ở lời nói hay những cử chỉ bề ngoài, mà phải được thể hiện bằng chính cách sống hằng ngày. Nếu chúng ta đã lãnh nhận nhưng không từ Thiên Chúa và từ tha nhân, thì cũng hãy biết cho đi nhưng không bằng tấm lòng quảng đại và yêu thương.

Vậy chúng ta phải sống biết ơn như thế nào? Phải chăng biết ơn Chúa là biết sống tốt hơn mỗi ngày? Biết trân trọng và cầu nguyện cho cha mẹ, ân nhân, thầy cô và những người âm thầm giúp đỡ ta? Biết chia sẻ cơm áo, thời giờ, khả năng cho những người nghèo khổ, bệnh tật và cô đơn? Biết nói lời cảm ơn, xin lỗi, cũng như sống hòa thuận trong gia đình, nơi làm việc và trong cộng đoàn giáo xứ? Chính trong những hành động cụ thể ấy, lòng biết ơn trở thành một việc đạo đức sống động, trở thành dấu chỉ của niềm hy vọng và chứng nhân giữa đời thường. Nhờ đó, mọi người sẽ nhận ra chúng ta là môn đệ của Đức Giê-su Ki-tô cách thiết thực và cụ thể. Amen.

Ý Nghĩa Của Phép Lạ

2 V 5,14-17; 2 Tm 2,8-13; Lc 17,11-19

Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương

Khi Chúa Giêsu trên đường lên Giêrusalem, có mười người phong cùi đến gặp Người tại cửa vào một làng. Họ đứng từ đàng xa và kêu lớn tiếng:

“Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi!” (Lc 17,13).

Chúa Giêsu động lòng thương và nói với họ:

“Hãy đi trình diện với các tư tế” (Lc 17,14).

Khi đi gặp các tư tế, cả mười người phong cùi nhận thấy mình được khỏi bệnh. Một người trong số họ quay trở lại tạ ơn Chúa Giêsu, người đó lại là người Samari. Đây là phép lạ Chúa Giêsu chữa lành những người phong cùi được thánh Luca trình thuật trong bài Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe.

1. Các phép lạ trong Kinh Thánh

Bài đọc I cũng nói về việc tiên tri Êlisa chữa lành một cách lạ lùng cho một người phong cùi, đó là Naaman, người Syria.

Rõ ràng ý hướng chủ đạo của phụng vụ Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta suy tư về ý nghĩa của phép lạ chữa lành người phong cùi.

Thật vậy, Kinh Thánh cho thấy dân chúng rất trông chờ Chúa Giêsu làm những phép lạ trong sứ vụ của Người. Đối với họ, ý tưởng nổi bật nhất mà họ quan niệm về Người là Đấng có quyền năng thực hiện nhiều phép lạ. Người ta thích thú hình ảnh này hơn hình ảnh Chúa Giêsu như là vị ngôn sứ. Một cách nào đó, chính Chúa Giêsu nhìn nhận và chứng thực về sứ mạng cứu độ của Người khi nói rằng:

“Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng” (Mt 11,5).

Nếu các phép lạ bị xóa bỏ khỏi cuộc đời Chúa Giêsu thì cốt lõi của toàn bộ Tin Mừng cũng bị phá hủy.

Trong Tin Mừng, các phép lạ thường được đón nhận cách khác nhau. Đôi khi chúng được nhìn cách tích cực và đôi khi trở thành tiêu cực. Tích cực, khi chúng được đón nhận với lòng biết ơn và niềm vui, khi chúng đánh thức đức tin vào Chúa Kitô và hy vọng vào một thế giới tương lai không có bệnh tật và chết chóc. Tiêu cực, khi người ta chạy theo phép lạ, chỉ tìm kiếm phép lạ hoặc đòi Chúa làm phép lạ rồi mới tin, như trong cuộc hội thoại giữa Chúa và người Do Thái:

“Đâu là dấu chỉ ông làm để chúng tôi có thể tin vào ông?” (Ga 6,30).

Chúa Giêsu luôn từ chối làm phép lạ nếu họ thiếu niềm tin và vì mục đích này.

2. Sự bất cập hoặc thái quá khi nói về phép lạ

Ngày hôm nay, tính hiếu kỳ và thói chạy theo dấu lạ vẫn cứ tiếp tục trong dân chúng dưới muôn vàn hình thức khác nhau. Một đàng, có những người thích tìm kiếm phép lạ, tìm kiếm những chuyện ngoại thường xảy ra, rồi nhẹ dạ cả tin vì được chứng kiến tận mắt những hình ảnh, cảnh tượng như việc Đức Mẹ chảy dầu, tượng Chúa chảy mồ hôi, ảnh Lòng Chúa Thương Xót trổ hoa v.v… trong khi phép lạ Thánh Thể mỗi ngày diễn ra trên bàn thờ nơi thánh lễ thì họ rất ít quan tâm và đến tham dự…

Đàng khác, có những người lại phủ nhận hoàn toàn các phép lạ trong cuộc sống. Quả thế, họ nhìn phép lạ với một thái độ khó chịu nào đó và cho rằng những chuyện như thế là hoàn toàn bịa đặt. Theo họ, phép lạ như một lệch lạc của niềm tin tôn giáo, hay là do sự ngu muội, chủ quan, dốt nát, cả tin. Tuy nhiên, họ không nhìn nhận rằng trong lịch sử và trong cuộc sống, có những điều kỳ diệu xảy ra mà chỉ có đức tin mới lý giải được, đó là những can thiệp của Thiên Chúa, là dấu chỉ tình yêu Chúa dành cho con người khi chữa lành, hay cứu vớt một ai đó. Chẳng hạn như những trường hợp bệnh nhân được chữa lành ở Lộ Đức, hay trường hợp một người phụ nữ không có con ngươi, nhưng khi tiếp xúc với cha Piô Năm Dấu, thì bà nhìn thấy được.

3. Tiêu chuẩn để phân định

Cùng với những tường thuật về các phép lạ, Kinh Thánh cho chúng ta những tiêu chuẩn để phân định tính xác thực và mục đích của các phép lạ.

Trong Kinh Thánh, phép lạ tự nó không bao giờ là mục đích; phép lạ chỉ là một phương tiện để dẫn người ta đến với Thiên Chúa; Chúa Giêsu không làm phép lạ với ý định đề cao mình hay để chứng tỏ cho mọi người thấy quyền năng ngoại thường trổi vượt của mình. Người không giống như hầu hết những nhà phù thủy khi chữa bệnh, họ thường quảng cáo về mình. Đúng hơn, phép lạ được thực hiện như là sự khích lệ và phần thưởng của đức tin. Phép lạ là một dấu chỉ giúp con người hướng tới ý nghĩa cao cả hơn của cuộc sống. Tự bản chất, phép lạ là “dấu chỉ” hướng đến Thiên Chúa và cũng dẫn con người đến với Người. Thiên Chúa tự tỏ mình trong quyền năng yêu thương qua các phép lạ chữa lành của Chúa Giêsu và của các Tông Đồ. Chữa lành là một chiều kích chính yếu của sứ vụ Tông Đồ và của niềm tin Kitô giáo nói chung. Trong ý nghĩa đó, Kitô giáo được gọi là “tôn giáo chữa lành.” Ơn cứu độ xét cho cùng đó chính là sự chữa lành. Ai thực sự muốn chữa lành, người đó phải nhìn nhận rằng việc cứu chữa cuối cùng chỉ có thể đến từ tình yêu Thiên Chúa.

Bởi thế, chúng ta cần phải tránh rơi vào hai thái cực, hoặc là chạy theo tìm kiếm dấu lạ, hoặc là phủ nhận hoàn toàn các dấu lạ của cuộc sống, nhưng phải biết đón nhận những phép lạ với một thái độ biết ơn và cảm tạ Thiên Chúa. Con người thường thích nhận quà mà quên người tặng quà. Nên chúng ta cần học thái độ biết ơn của người phong ở Samari.

Xin Chúa giúp chúng ta có cặp mắt đức tin trong suốt để chúng ta thấy được những điều kỳ diệu mà Thiên Chúa thực hiện trong cuộc sống, nhờ đó chúng ta biết ngạc nhiên, tạ ơn và thực thi thánh ý của Thiên Chúa qua những phép lạ Người làm. Amen!

Nguồn: dcvphanxicoxavie.com

Có thể bạn quan tâm