GIÁO LÝ VỀ CẦU NGUYỆN
WHĐ (17.03.2024) – Trong năm cầu nguyện 2024, Bộ Loan Báo Tin Mừng khuyến khích các kitô hữu đọc lại loạt bài giáo lý về cầu nguyện của Đức Thánh Cha Phanxicô trong các buổi tiếp kiến chung vào sáng thứ Tư hằng tuần từ ngày 06.05.2020 đến 16.06.2021.
Loạt bài giáo lý về cầu nguyện của Đức Thánh Cha Phanxicô:
Ngày 06.05.2020
Bài 01: Sự mầu nhiệm của cầu nguyện
Anh chị em thân mến, chào anh chị em!
Hôm nay chúng ta bắt đầu loạt bài giáo lý mới về chủ đề cầu nguyện. Cầu nguyện là hơi thở của đức tin, là cách diễn tả đúng nhất của đức tin; nó giống như tiếng kêu phát xuất từ trái tim của người tin và tín thác vào Thiên Chúa.
Tiếng kêu của anh mù Ba-ti-mê
Chúng ta hãy nghĩ về câu chuyện của anh Ba-ti-mê, một nhân vật trong Tin Mừng (x. Mc 10,46-52) và tôi thú nhận với anh chị em, đối với tôi, đây là nhân vật dễ thương nhất trong tất cả. Anh ta bị mù và ngồi ăn xin bên vệ đường ở ngoại ô thành phố Giê-ri-cô. Anh ta không phải là một nhân vật vô danh, anh ta có một khuôn mặt, một cái tên: Ba-ti-mê, nghĩa là “con của ông Ti-mê”. Một ngày nọ, ông nghe nói rằng Chúa Giêsu sẽ đi qua. Trên thực tế, Giê-ri-cô là một ngã tư, nơi những người hành hương và thương nhân liên tục đi ngang qua. Rồi Ba-ti-mê làm mọi cách để có thể gặp Chúa Giêsu. Nhiều người cũng làm giống như vậy: chúng ta hãy nhớ đến ông Gia-kêu leo lên cây. Rất nhiều người muốn nhìn thấy Chúa Giêsu, và anh ta cũng thế.
Như thế, người đàn ông này bước vào Tin Mừng như một tiếng kêu lớn. Anh không nhìn thấy, không biết Chúa Giêsu ở gần hay ở xa, nhưng anh nghe, anh biết được nhờ đám đông, khi tiếng ồn tăng lên và đến gần… Nhưng anh hoàn toàn cô độc, và không ai quan tâm đến anh. Ba-ti-mê làm gì? Kêu lớn, gào lên, và tiếp tục hét lên. Anh sử dụng vũ khí duy nhất mình đang có: đó là tiếng nói. Anh bắt đầu hét to lên: “Lạy ông Giêsu, Con Vua David, xin rủ lòng thương tôi!” (c. 47). Cứ thế, anh tiếp tục hét to lên.
Tiếng kêu thét lặp đi lặp lại của anh gây phiền phức, và nhiều người mắng anh, bảo anh im lặng: “Này, cư xử có giáo dục đi, đừng làm như thế!”. Nhưng Ba-ti-mê không im lặng, ngược lại, anh còn hét to hơn: “Lạy ông Giêsu, Con Vua David, xin rủ lòng thương tôi!” (c. 47). Sự bướng bỉnh rất dễ thương của những người tìm kiếm ơn lành và gõ cửa trái tim của Thiên Chúa. Anh kêu to, gõ cửa. Câu nói “Con Vua David” rất quan trọng; nó có nghĩa là “Đấng Thiên Sai” – tuyên xưng Đấng Thiên Sai – đó là một lời tuyên xưng đức tin xuất phát từ miệng của người bị mọi người khinh bỉ coi thường.
Lời cầu nguyện của anh Ba-ti-mê chạm đến trái tim của Chúa
Và Chúa Giêsu lắng nghe tiếng kêu của anh. Lời cầu nguyện của anh Ba-ti-mê chạm đến trái tim của Chúa, trái tim của Thiên Chúa và cánh cửa cứu độ được mở ra cho anh. Chúa Giêsu gọi anh. Anh nhảy lên và những người trước đây bảo anh giữ im lặng thì giờ đây dẫn anh ta đến với vị Tôn sư. Chúa Giêsu nói chuyện với anh, yêu cầu anh giải bày mong muốn của mình – điều này rất quan trọng – và sau đó tiếng kêu trở thành một lời cầu xin: “Xin cho tôi nhìn thấy lại!” (x. 51).
Cầu nguyện xuất phát từ sự khiêm nhường
Chúa Giêsu nói với anh: “Anh hãy đi, đức tin của anh đã cứu anh” (c. 52). Chúa nhận ra nơi người đàn ông đáng thương, bất lực, bị coi thường đó, tất cả sức mạnh của đức tin của anh, điều thu hút lòng thương xót và quyền năng của Thiên Chúa. Đức tin là giơ hai tay lên trời và kêu lớn cầu xin ơn cứu độ. Giáo lý nói rằng “khiêm tốn là nền tảng của cầu nguyện” (Giáo lý Giáo hội Công giáo, 2559). Lời cầu nguyện phát sinh từ sự khiêm hạ. Từ humus trong tiếng Latinh có nghĩa là bùn, từ từ này xuất phát từ “khiêm tốn”, “khiêm nhường” trong tiếng Ý; Như thế, cầu nguyện xuất phát từ trạng thái bấp bênh của chúng ta, từ nỗi khao khát Thiên Chúa không nguôi của chúng ta (x. Ibid., 2560-2561).
Đức tin thì phản kháng và hy vọng, còn “phi đức tin” thì chịu đựng
Đức tin, như chúng ta thấy nơi anh Ba-ti-mê, là một tiếng kêu gào; điều không có đức tin thì bóp nghẹt tiếng kêu đó. Đó là thái độ của dân chúng khi bảo anh mù im lặng: họ không phải là người của đức tin, nhưng anh mù thì ngược lại. Bóp nghẹt tiếng kêu là một loại “bưng bít”. Đức tin là sự phản kháng lại một tình cảnh đau đớn mà chúng ta không hiểu tại sao; còn không có đức tin thì bị giới hạn trong việc chịu đựng một tình huống mà chúng ta đã thích nghi. Đức tin là hy vọng được cứu; phi đức tin thì dần quen với sự ác áp bức chúng ta.
Anh chị em thân mến, chúng ta bắt đầu loạt bài giáo lý này bằng tiếng kêu của anh Ba-ti-mê, bởi vì có lẽ mọi thứ đã được viết trong một nhân vật như anh. Anh Ba-ti-mê là một con người kiên trì. Xung quanh anh có những người giải thích rằng cầu xin là vô ích, đó là tiếng kêu không được đáp lại, đó là một tiếng ồn làm phiền và đó là tất cả: nhưng anh không im lặng. Và cuối cùng anh đã có được thứ mình muốn.
Tiếng nói khẩn cầu trong lòng người
Mạnh mẽ hơn bất kỳ lý lẽ trái ngược nào, trong lòng con người có một tiếng nói khẩn cầu. Một tiếng nói phát ra một cách tự nhiên, không có ai ra lệnh cho nó, một tiếng nói đặt câu hỏi về ý nghĩa của hành trình của chúng ta trên trái đất này, đặc biệt là khi chúng ta đang gặp hoàn cảnh tăm tối: “Lạy Chúa Giêsu, xin thương xót con! Lạy Chúa Giêsu thương xót tất cả chúng con!”. Một lời cầu nguyện tuyệt vời!
Con người là “hành khất của Chúa”
Nhưng có phải những từ này không được khắc sâu trong mọi loài thụ tạo? Tất cả cầu khẩn và cầu xin để mầu nhiệm của lòng thương xót hoàn thành trọn vẹn. Không chỉ các Kitô hữu cầu nguyện: họ chia sẻ tiếng kêu cứu cầu nguyện với tất cả mọi người nam nữ. Nhưng thánh Phaolô nói rằng muôn loài thụ tạo “cùng rên siết và quằn quại như sắp sinh nở” (Rm 8,22). Các nghệ sĩ thường trở thành người phiên dịch cho tiếng kêu khóc thầm lặng của thụ tạo, điều in dấu nơi mọi sinh vật và đặc biệt trong trái tim con người, bởi vì con người là một “hành khất của Thiên Chúa” (x. GLHTCG, 2559). Một định nghĩa thật hay về con người: “người hành khất của Chúa.”
Nguồn: vaticannews.va/vi
Ngày 13.05.2020
Bài 02: Lời cầu nguyện của một Kitô hữu
Anh chị em thân mến, chào anh chị em!
Hôm nay chúng ta đi đến bước thứ hai trong loạt bài giáo lý về cầu nguyện mà chúng ta đã bắt đầu tuần trước.
Nếu trái tim cầu nguyện thì toàn thể con người cầu nguyện
Cầu nguyện thuộc về tất cả mọi người: mọi người thuộc mọi tôn giáo, và có lẽ cũng thuộc về những người không tuyên xưng niềm tin của họ. Cầu nguyện xuất phát từ nơi sâu kín của chính chúng ta, ở nơi nội tâm mà các tác giả thiêng liêng thường gọi là “trái tim” (x. Giáo lý Hội Thánh Công giáo, 2562-2563). Do đó, cầu nguyện không phải là một cái gì đó nằm ở bên ngoài chúng ta, nó không phải là một điều thứ yếu và bị xếp bên lề, nhưng là mầu nhiệm thâm sâu nhất của chính chúng ta. Các cảm xúc cầu nguyện, nhưng không thể nói rằng cầu nguyện chỉ là cảm xúc. Lý trí cầu nguyện, nhưng cầu nguyện không chỉ là một hành động của lý trí. Cơ thể cầu nguyện, nhưng người ta có thể nói chuyện với Thiên Chúa ngay cả trong tình trạng thương tật nghiêm trọng nhất. Do đó, toàn thể con người cầu nguyện, nếu “trái tim” của người đó cầu nguyện.
Cầu nguyện là khao khát tìm kiếm “Ngài”
Cầu nguyện là một động lực, là một lời cầu khẩn vượt ra ngoài chính chúng ta: là một điều gì đó phát sinh từ sâu thẳm con người chúng ta và vươn lên, bởi vì nó cảm thấy nỗi nhớ của một cuộc gặp gỡ. Nỗi nhớ này còn hơn là một nhu cầu, nó là một con đường. Cầu nguyện là tiếng nói của một cái “tôi” mò mẫm, cố gắng, tìm kiếm một Đấng là “Ngài”. Cuộc gặp gỡ giữa “tôi” và “Ngài” không thể thực hiện bằng cách tính toán: nó là cuộc gặp gỡ của con người và nhiều lần nó là một cố gắng để tìm “Ngài” Đấng mà cái “tôi” của tôi đang tìm kiếm.
Lời cầu nguyện của Kitô hữu phát xuất từ một mặc khải
Còn lời cầu nguyện của Kitô hữu phát sinh từ một mặc khải: “Ngài” không bị che giấu trong mầu nhiệm, nhưng đã đi vào tương quan với chúng ta. Kitô giáo là tôn giáo không ngừng cử hành “sự tỏ mình” của Thiên Chúa, sự hiển linh của Người. Các ngày lễ đầu tiên của năm phụng vụ cử hành một Thiên Chúa không ẩn dấu, nhưng là người mang tình bạn của mình đến với con người. Thiên Chúa mặc khải vinh quang của Người trong sự nghèo khó ở Bêlem, trong sự chiêm ngắm của Ba Vua, trong phép rửa tại sông Giordan, trong phép lạ tại tiệc cưới ở Cana. Tin Mừng thánh Gioan kết thúc bằng một tuyên bố ngắn gọn về bài thánh ca vĩ đại của Lời Mở đầu: “Thiên Chúa, chưa bao giờ có ai thấy cả; nhưng Con Một vốn là Thiên Chúa và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết” (1,18). Chính Chúa Giêsu mặc khải Thiên Chúa cho chúng ta.
Thiên Chúa có gương mặt dịu dàng nhất
Lời cầu nguyện của người Kitô hữu đi vào trong tương quan với Thiên Chúa có khuôn mặt dịu dàng nhất, Đấng không muốn gieo rắc bất kỳ nỗi sợ hãi nào cho con người. Đây là đặc điểm đầu tiên của cầu nguyện Kitô giáo. Nếu con người luôn quen đến với Thiên Chúa với một chút sợ hãi, một chút kinh hoàng bởi mầu nhiệm hấp dẫn và kính sợ này, nếu họ đã quen với việc tôn kính Người với thái độ của nô lệ, giống như một người thuộc quyền không muốn bất kính với chủ của mình, ngược lại, các Kitô hữu hướng về Người và dám tự tin gọi Người là “Cha”.
Tấm chi phiếu “trắng”, không giới hạn!
Kitô giáo đã loại bỏ mọi mối quan hệ “phong kiến” ra khỏi tương quan với Thiên Chúa. Trong di sản đức tin của chúng ta không có các thành ngữ như “sự khuất phục”, “nô lệ” hay “chư hầu”; nhưng là những từ như “giao ước”, “tình bạn”, “lời hứa”, “hiệp thông”, “gần gũi”. Trong diễn từ dài từ biệt các môn đệ của mình, Chúa Giêsu nói: ” Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết. Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của anh em tồn tại, hầu tất cả những gì anh em xin cùng Chúa Cha nhân danh Thầy, thì Người ban cho anh em” (Ga 15,15-16). Đây là một tấm chi phiếu “trắng”, không giới hạn! Mọi điều anh em xin với Chúa Cha nhân danh Thầy, Người sẽ ban cho anh em.
Thiên Chúa là bạn, là đồng minh, là hôn phu
Thiên Chúa là bạn, là đồng minh, là hôn phu. Trong lời cầu nguyện, chúng ta có thể kiến tạo một mối quan hệ tin tưởng với Người, đến nỗi trong kinh “Lạy Cha”, Chúa Giêsu đã dạy chúng ta cầu xin Người nhiều điều. Chúng ta có thể cầu xin Chúa mọi thứ, giải thích mọi thứ, kể lại mọi thứ. Không quan trọng nếu chúng ta cảm thấy khiếm khuyết trong mối quan hệ với Chúa: chúng ta không phải là những người bạn tốt, chúng ta không phải là những người con biết ơn, chúng ta không phải là người phối ngẫu chung thủy. Người tiếp tục yêu thương chúng ta. Đó là những gì Chúa Giêsu bày tỏ cách dứt khoát trong Bữa Tiệc Ly, khi Người nói: “Chén này là Giao Ước Mới, lập bằng máu Thầy, máu đổ ra vì anh em.” (Lc 22,20). Trong cử chỉ đó, tại phòng tiệc ly, Chúa Giêsu đã tiên đoán mầu nhiệm Thánh giá. Thiên Chúa là một đồng minh trung thành: nếu con người không còn kính yêu Người, Người vẫn tiếp tục yêu thương con người, ngay cả khi tình yêu đưa Người đến cuộc khổ nạn trên đồi Canvê. Thiên Chúa luôn ở gần cánh cửa trái tim của chúng ta và chờ đợi chúng ta mở cửa cho Người. Nhiều lần Người gõ cửa trái tim nhưng không xâm nhập, nhưng Người chờ đợi. Lòng kiên nhẫn của Chúa đối với chúng ta là lòng kiên nhẫn của người cha, của người vô cùng yêu thương chúng ta. Tôi có thể nói đó là lòng kiên nhẫn của cùng người cha và người mẹ. Chúa luôn ở gần bên lòng chúng ta và Người gõ cánh cửa cách nhẹ nhàng, yêu thương.
Thiên Chúa chỉ biết yêu thương
Tất cả chúng ta hãy cố gắng cầu nguyện như thế, bằng cách đi vào mầu nhiệm của Giao ước. Hãy cầu nguyện bằng cách đặt mình trong vòng tay thương xót của Thiên Chúa; hãy cảm thấy được bao bọc trong mầu nhiệm hạnh phúc, đó là cuộc sống của Thiên Chúa Ba Ngôi; hãy cảm thấy như những vị khách không xứng đáng có vinh dự được mời. Và lặp lại với Chúa, trong sự kinh ngạc của lời cầu nguyện: có phải là Chúa chỉ biết yêu thương? Người không biết oán ghét. Đây là Thiên Chúa mà chúng ta cầu nguyện. Đây là cốt lõi rực rỡ của mỗi lời cầu nguyện Kitô giáo. Thiên Chúa của tình yêu, Cha của chúng ta, Đấng chờ đời và đồng hành với chúng ta.
Nguồn: vaticannews.va/vi
Ngày 20.05.2020
Bài 03: Mầu nhiệm Sáng tạo
Anh chị em thân mến, chào anh chị em!
Chúng ta hãy tiếp tục bài giáo lý về cầu nguyện bằng cách suy niệm về mầu nhiệm Sáng Tạo. Sự sống, sự kiện đơn giản là chúng ta tồn tại, đưa tâm hồn con người đến với việc cầu nguyện.
Trình thuật Sáng tạo: bài thánh thi tạ ơn tuyệt vời
Trang đầu tiên của sách Kinh Thánh giống với một bài thánh thi tạ ơn tuyệt vời. Trình thuật Sáng tạo được nhấn mạnh bởi các điệp khúc không ngừng lập đi lập lại sự tốt lành và vẻ đẹp của mọi sinh vật hiện hữu. Thiên Chúa dùng lời của Người ban sự sống cho chúng và mọi sự hiện hữu. Người dùng lời của mình tách ánh sáng ra khỏi bóng tối, luân chuyển giữa ngày và đêm, xen kẽ các mùa với nhau, tạo nên một bảng màu với sự đa dạng của các loài động thực vật. Trong khu rừng phong phú đầy các sinh vật này, nơi sự hỗn loạn nhanh chóng bị đánh bại, con người xuất hiện cuối cùng. Và sự xuất hiện này tạo nên một sự phấn khích vô cùng, gia tăng sự hài lòng và vui mừng: “Thiên Chúa thấy mọi sự Người đã làm ra quả là rất tốt đẹp” (St 1,31).
Công trình Sáng tạo thúc đẩy con người cầu nguyện
Vẻ đẹp và mầu nhiệm Sáng tạo làm nảy sinh trong trái tim con người động lực đầu tiên khơi dậy việc cầu nguyện (x. Giáo lý Hội Thánh Công giáo, 2566). Thánh vịnh 8 nói: “Ngắm tầng trời tay Chúa sáng tạo, muôn trăng sao Chúa đã an bài, thì con người là chi, mà Chúa cần nhớ đến,phàm nhân là gì, mà Chúa phải bận tâm?” (cc.4-5). Người cầu nguyện chiêm ngắm mầu nhiệm hiện hữu ở xung quanh mình, nhìn thấy bầu trời đầy sao phía trên mình – và điều mà vật lý thiên văn cho chúng ta thấy ngày nay trong tất cả sự mênh mông của nó – và tự hỏi thiết kế tình yêu nào tạo nên một công trình vĩ đại như vậy!… Và, trong sự bao la vô biên này, con người là gì? “Hầu như chỉ là phù du”, một Thánh vịnh khác nói (x. 89,48): một sinh vật được sinh ra, một sinh vật sẽ chết, một sinh vật vô cùng mong manh. Tuy nhiên, trong toàn vũ trụ, con người là sinh vật duy nhất nhận thức được vẻ đẹp vô cùng như vậy.
Chỉ cần chiêm ngưỡng một bầu trời đầy sao để biết tạ ơn
Lời cầu nguyện của con người được liên kết chặt chẽ với cảm giác kinh ngạc. Kích thước của con người vô cùng nhỏ bé nếu so với kích thước của vũ trụ. Thành tựu lớn nhất của con người dường như là rất nhỏ nhoi ít ỏi… Thật ra con người chẳng là gì cả. Trong lời cầu nguyện, chúng ta xác nhận cảm giác của lòng thương xót. Không có gì tồn tại một cách tình cờ: bí mật của vũ trụ nằm trong một ánh mắt nhân từ mà ai đó gặp thấy trong mắt chúng ta. Thánh vịnh nói rằng chúng ta được tạo ra chẳng thua kém thần linh là mấy, ban vinh quang danh dự làm mũ triều thiên (x. 8,6). Mối quan hệ với Thiên Chúa là sự vĩ đại của con người: sự đăng quang của con người. Theo tự nhiên, chúng ta gần như không là gì, nhưng theo ơn gọi, chúng ta là con của vị Quân vương vĩ đại!
Đó là một kinh nghiệm mà nhiều người trong chúng ta đã trải qua. Nếu cuộc sống, với tất cả sự cay đắng của nó, đôi khi có nguy cơ làm món quà cầu nguyện trong chúng ta bị nghẹt thở, thì chỉ cần chiêm ngưỡng một bầu trời đầy sao, một hoàng hôn, một bông hoa…, để thắp lại tia sáng của lời tạ ơn. Kinh nghiệm này có lẽ là điều căn bản của trang đầu tiên của Kinh Thánh.
Cầu nguyện là sức mạnh của hy vọng
Khi trình thuật Kinh thánh tuyệt vời về Sáng tạo được viết, dân tộc Israel đang sống những ngày không hạnh phúc. Một thế lực thù địch đã chiếm giữ đất nước, nhiều người bị lưu đày, và họ đang làm nô lệ ở Mesopotamia. Không còn quê hương, không còn đền thờ, không còn đời sống xã hội và tôn giáo, không còn gì.
Tuy nhiên, bắt đầu từ trình thuật vĩ đại về Sáng tạo, một người nào đó bắt đầu tìm lại được lý do để tạ ơn, để ca ngợi Thiên Chúa vì sự hiện hữu. Cầu nguyện là sức mạnh đầu tiên của hy vọng. Khi cầu nguyện, hy vọng gia tăng, và chúng ta tiến bước. Cầu nguyện mở ra cánh cửa hy vọng. Hy vọng có đó, nhưng khi cầu nguyện, chúng ta mở cánh cửa của hy vọng. Bởi vì những người cầu nguyện bảo vệ những chân lý cơ bản; họ là những người lặp lại, trước hết là cho chính họ và sau đó là cho tất cả những người khác: bất chấp mọi vất vả và thử thách, bất chấp những ngày khó khăn, cuộc sống này tràn đầy ân sủng và làm họ kinh ngạc. Và như vậy nó phải luôn được bảo vệ và gìn giữ.
Cầu nguyện chiếu sáng tâm hồn, con tim, gương mặt của chúng ta
Những người nam nữ cầu nguyện biết rằng hy vọng mạnh mẽ hơn sự nản lòng. Họ tin rằng tình yêu mạnh hơn sự chết, và chắc chắn một ngày nào đó nó sẽ chiến thắng, ngay cả khi trong những thời điểm và cách thế mà chúng ta không biết. Những người nam nữ cầu nguyện mang ánh sáng phản chiếu trên gương mặt họ: bởi vì, ngay cả trong những ngày u tối, mặt trời không ngừng chiếu sáng họ. Cầu nguyện chiếu sáng tâm hồn chúng ta, trái tim và gương mặt của chúng ta, ngay cả những lúc tăm tối, ngay cả trong thời gian đau khổ nhất.
Người mang niềm vui
Tất cả chúng ta đều là người mang niềm vui. Anh chị em có nghĩ như thế không? Bạn là một người mang niềm vui? Hay bạn thích là người mang tin xấu khiến cho buồn sầu? Cuộc sống này là món quà mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta: và nó quá ngắn để hưởng thụ nó trong nỗi buồn, trong cay đắng. Chúng ta hãy ca ngợi Chúa, hãy hạnh phúc vì đơn giản là được sống. Chúng ta hãy ngắm nhìn vũ trụ, chiêm ngắm vẻ đẹp và cũng ngắm nhìn các thánh giá của mình và nói: “Nhưng Chúa hiện hữu, Chúa đã tạo nên chúng con như thế vì Chúa.” Và chúng ta cảm thấy sự thanh tĩnh của con tim, điều khiến chúng ta tạ ơn và chúc tụng Chúa.
Cảm ơn là lời cầu nguyện đẹp nhất
Chúng ta là con cái của vị Vua vĩ đại, của Đấng Tạo Hóa, chúng ta có khả năng đọc dấu ấn của Người trong toàn thể công trình Sáng tạo. Chúng ta chăm sóc công trình sáng tạo đó nhưng trong nó có dấu ấn của Thiên Chúa, Đấng đã yêu thương tạo dựng nó. Xin Chúa giúp chúng ta luôn hiểu được điều này cách sâu sắc và giúp chúng ta nói lời “cảm ơn”, và lời cảm ơn đó là một lời cầu nguyện tuyệt vời.
Nguồn: vaticannews.va/vi
Ngày 27.05.2020
Bài 04: Lời cầu nguyện của những người công chính
Anh chị em thân mến,
Chúng ta dành bài giáo lý hôm nay cho lời cầu nguyện của những người công chính.
Kế hoạch của Thiên Chúa dành cho con người là tốt lành, nhưng trong cuộc sống hàng ngày chúng ta lại nhận thấy có sự hiện diện của sự dữ. Những chương đầu tiên của sách Sáng Thế miêu tả sự phát triển, lan rộng của tội lỗi trong cuộc sống con người. Ông Adam và bà Evà (x. St 3,1-7) nghi ngờ ý định nhân lành của Thiên Chúa, nghĩ rằng họ đang gặp một vị thần ghen tương, ngăn cản họ được hạnh phúc. Từ đó, họ nổi loạn: họ không còn tin vào một Đấng Tạo Hóa quảng đại, mong muốn họ được hạnh phúc. Tâm hồn họ chiều theo cám dỗ của kẻ xấu, bị ảo tưởng về sự toàn năng: “Nếu chúng ta ăn trái của cây, chúng ta sẽ trở nên giống Thiên Chúa” (x. c. 5). Đây là cám dỗ, là tham vọng len vào tâm hồn. Nhưng họ đã gặp phải điều ngược lại: mắt họ mở ra và họ thấy mình trần truồng (c. 7).
Sự dữ càng trở nên tàn phá hơn trong thế hệ con người thứ hai: đó là câu chuyện về Cain và Abel (x. St 4,1-16). Cain ghen tị với em mình; mặc dù là con đầu lòng, anh coi Abel là đối thủ, người đe dọa quyền trưởng tử của anh ta. Sự ác xuất hiện trong trái tim Cain và anh ta không thể chiến thắng nó. Sự ác bắt đầu đi vào tâm lòng: nhìn người khác với những ý tưởng xấu, nghi ngờ. “Tên này là người xấu, sẽ hại mình.” Và thế là câu chuyện về tình huynh đệ đầu tiên kết thúc bằng một vụ giết người. Tôi nghĩ về tình huynh đệ nhân loại ngày nay: chiến tranh ở khắp nơi.
Hậu duệ của Cain phát triển các nghề thủ công và nghệ thuật, nhưng cũng phát triển bạo lực, được thể hiện qua bài ca độc ác của Laméc, nghe như một bài thi ca báo thù: “Vì một vết thương, ta đã giết một người; vì một chút sây sát, ta đã giết một đứa trẻ. Cain sẽ được báo thù gấp bảy, nhưng Laméc thì gấp bảy mươi bảy lần!” (St 4,23-24). Báo thù là thế này: bạn gây ra thì bạn phải đền trả. Nhưng quan tòa không nói điều này, mà là tôi nói. Tôi biến mình thành quan tòa. Và thế là tà ác lan truyền như dầu loang, cho đến khi nó chiếm trọn bức tranh: ” Đức Chúa thấy rằng trên mặt đất sự gian ác của con người quả là nhiều, và suốt ngày lòng nó chỉ toan tính những ý định xấu.” (St 6,5). Các bức bích họa lớn về trận đại hồng thủy (chương 6-7) và tháp Babel (chương 11) cho thấy rằng cần có một khởi đầu mới, như một sáng tạo mới, sẽ được hoàn thành trong Chúa Kitô.
Lời cầu nguyện của những người công chính
Tuy nhiên, trong những trang đầu tiên của Kinh Thánh, một câu chuyện khác cũng được thuật lại, ít nổi bật hơn, khiêm tốn và đạo đức hơn nhiều, đại diện cho sự cứu rỗi của hy vọng. Ngay cả khi hầu hết mọi người cư xử một cách tàn bạo, tạo nên thù hận, vẫn có những người có thể cầu nguyện với Thiên Chúa một cách chân thành, có khả năng viết lại số phận của con người theo một cách khác. Abel dâng cho Thiên Chúa của lễ hy sinh là những hoa trái đầu mùa. Sau khi Adam chết, ông Adam và bà Evà có người con thứ ba, đó là Sết, người sinh ra Ênốt, và Sách Thánh nói: “Lúc đó, người ta bắt đầu kêu cầu danh Đức Chúa” (4,26). Sau đó, Khanốc ra đời; ông là một người “bước đi với Chúa” và được Thiên Chúa “bắt cóc” đưa lên thiên đàng (x. 5,22.24). Và cuối cùng là câu chuyện về ông Nôê, một người công chính đã “bước đi với Chúa” (6,9); qua ông, Thiên Chúa đã rút lại ý định xóa sổ loài người (x. 6,7-8).
Cầu nguyện giải thoát khỏi bản năng bạo lực, hướng về Thiên Chúa xin Người biến đổi trái tim chúng ta
Đọc những câu chuyện này, chúng ta có ấn tượng rằng cầu nguyện vừa là bờ đê vừa là nơi ẩn náu của con người trước làn sóng tràn đầy sự ác đang phát triển trên thế giới. Quan sát kỹ hơn, chúng ta cũng cầu nguyện để được cứu khỏi chính mình. “Lạy Chúa xin cứu con khỏi chính con, khỏi những tham vọng, đam mê của con.” Những người cầu nguyện trong những trang đầu tiên của Kinh Thánh là những người hoạt động vì hòa bình: thực tế, khi lời cầu nguyện là đích thực, nó giải thoát khỏi bản năng bạo lực và nó là một cái nhìn chăm chú vào Thiên Chúa, xin Người quay lại chăm sóc trái tim của con người. Sách Giáo lý viết: “Phẩm chất cầu nguyện này được sống bởi vô số người công chính trong tất cả các tôn giáo” (GLHTCG, 2569). Cầu nguyện vun trồng những bông hoa tái sinh ở những nơi mà lòng thù hận của con người chỉ có thể làm cho sa mạc lan rộng. Lời cầu nguyện có sức mạnh, bởi vì nó lôi kéo quyền năng của Thiên Chúa và quyền năng của Chúa luôn ban sự sống. Đó là Thiên Chúa của sự sống và làm cho tái sinh.
Đây là lý do tại sao vương quyền của Thiên Chúa đi qua những thế hệ con người nam nữ này, những người thường bị hiểu lầm hoặc bị loại ra ngoài lề trên thế giới. Nhưng thế giới sống và phát triển nhờ sức mạnh của Thiên Chúa được ban nhờ lời cầu nguyện của những người phục vụ Người. Họ là những con người không ồn ào, hiếm khi trở thành các tiêu đề, nhưng điều rất quan trọng là họ khôi phục niềm tin cho thế giới!
Hãy dạy trẻ em làm dấu Thánh Giá – lời cầu nguyện đầu tiên
Giải thích cho điều vừa nói, Đức Thánh Cha kể câu chuyện về một nhà lãnh đạo vô thần. Trong lòng ông không có cảm thức tôn giáo, nhưng ông đã nghe bà của mình cầu nguyện từ khi còn nhỏ và lời cầu nguyện đó đọng lại trong lòng ông. Rồi trong một thời điểm khó khăn trong cuộc sống, kỷ niệm đó trở lại trong lòng ông. Ông bắt đầu cầu nguyện như bà của ông và ông đã tìm gặp được Chúa Giêsu. Đức Thánh Cha nhận định: Lời cầu nguyện là một chuỗi cuộc sống. Nhiều người cầu nguyện và gieo rắc sự sống…. Và ngài nhắc nhở: “Dạy cho trẻ em cầu nguyện là điều quan trọng. Tôi thấy đau lòng khi gặp các trẻ em và bảo ‘con hãy làm dấu Thánh giá’ và các em không biết làm. Hãy dạy các em làm dấu Thánh giá, đó là lời cầu nguyện đầu tiên. Có thể các em sẽ quên, sẽ đi theo con đường khác. Nhưng điều đó lưu lại trong lòng các em, bởi vì đó là hạt giống sự sống, hạt giống đối thoại với Thiên Chúa.
Hành trình của Thiên Chúa trong lịch sử của Thiên Chúa đã đi ngang qua họ: nó đã đi qua một “phần còn lại” của loài người, những người không khuất phục trước luật lệ của kẻ mạnh nhất, nhưng cầu xin Thiên Chúa thực hiện các phép lạ của Người, và trên hết là biến đổi trái tim bằng đá của chúng ta thành trái tim bằng thịt (x. Ed 36,26). Và điều này giúp cho việc cầu nguyện, bởi vì cầu nguyện mở lòng ra với Thiên Chúa, biến đổi trái tim cứng cỏi của chúng ta thành trái tim con người.
Nguồn: vaticannews.va/vi
Ngày 03.06.2020
Bài 05: Lời cầu nguyện của Áp-ra-ham
Anh chị em thân mến
Có một giọng nói đột ngột vang lên trong cuộc đời của tổ phụ Áp-ra-ham, một giọng nói mời gọi ông bước vào một hành trình nghe có vẻ không hợp lý: một giọng nói thúc đẩy ông rời bỏ quê hương, nguồn cội của gia đình, để đi đến một tương lai mới mẻ, khác biệt. Và tất cả dựa trên cơ sở của một lời hứa mà ông chỉ cần tin cậy. Tín tưởng vào một lời hứa không phải là điều dễ dàng, và chúng ta cần can đảm để làm điều này. Ông Áp-ra-ham đã tin tưởng.
Kinh Thánh không nói về quá khứ vị tổ phụ đầu tiên. Luận lý của các sự việc giả định rằng ông tôn thờ các vị thần khác, có lẽ ông là một người khôn ngoan, quen với việc xem xét bầu trời và các tinh tú. Thật sự là Chúa hứa với ông rằng hậu duệ của ông sẽ đông như những vì sao lấp lánh trên bầu trời.
Ông Áp-ra-ham lên đường. Ông lắng nghe tiếng Chúa và tin tưởng vào lời của Người. Sự khởi hành của ông đã tạo nên một cách hiểu mới về mối quan hệ với Thiên Chúa; chính vì lý do này mà tổ phụ Áp-ra-ham hiện diện trong các truyền thống linh đạo vĩ đại của Do Thái giáo, Kitô giáo và Hồi giáo như một người hoàn hảo của Thiên Chúa, có khả năng phục tùng Chúa ngay cả khi ý muốn của Chúa thật khó khăn, nếu không muốn nói là không thể hiểu được.
Cuộc đời Kitô hữu là thực hiện lời Chúa hứa
Do đó, Áp-ra-ham là con người của Lời Chúa. Khi Thiên Chúa nói, con người trở thành người đón nhận Lời Chúa và cuộc sống của họ là nơi mà Lời Chúa muốn nhập thể. Đây là một điều mới lạ tuyệt vời trong hành trình tôn giáo của con người: cuộc sống của người có đức tin bắt đầu được hiểu như là một ơn gọi, như nơi mà một lời hứa được thực hiện; và con người di chuyển trong thế giới không phải dưới sức nặng của điều bí ẩn, nhưng với sức mạnh của lời hứa đó, lời hứa mà một ngày kia sẽ trở thành sự thật. Và ông Áp-ra-ham tin vào lời hứa của Thiên Chúa. Ông đã tin và ông đã đi, dù không biết mình đi đâu, thư gửi các tín hữu Do Thái nói như thế. Nhưng ông đã tin tưởng.
Đức tin trở thành lịch sử
Đọc sách Sáng thế, chúng ta khám phá cách ông Áp-ra-ham sống kinh nguyện trong sự trung thành liên tục với Lời Chúa, Lời xuất hiện theo định kỳ dọc theo hành trình của ông. Tóm lại, chúng ta có thể nói rằng đức tin trở thành lịch sử trong cuộc đời của ông Áp-ra-ham. Nghĩa là, ông Áp-ra-ham, bằng cuộc sống và gương mẫu của ông, dạy cho chúng ta cuộc hành trình này, con đường mà qua đó đức tin làm nên lịch sử. Thiên Chúa không chỉ được thấy trong các hiện tượng vũ trụ, giống như một vị thần xa xôi, người có thể làm cho sợ hãi. Thiên Chúa của ông Áp-ra-ham trở thành “Thiên Chúa của tôi”, Thiên Chúa của lịch sử cá nhân của tôi, Đấng hướng dẫn bước chân tôi, Đấng không bỏ rơi tôi; Thiên Chúa của những ngày của tôi, người bạn đồng hành trong những cuộc phiêu lưu của tôi; Thiên Chúa Quan phòng.
Đức tin là kinh nghiệm của con người về sự hiện diện của Thiên Chúa
Tôi tự hỏi mình và hỏi bạn: chúng ta có kinh nghiệm này với Thiên Chúa không? Chúng ta có cảm nghiệm Thiên Chúa như là “Thiên Chúa của tôi”, Thiên Chúa đồng hành với tôi, Thiên Chúa của lịch sử đời tôi, Người dẫn bước tôi đi, Người không bỏ rơi tôi, Thiên Chúa của mọi ngày của tôi không?
Kinh nghiệm này của Abram cũng được chứng thực bởi một trong những văn bản nguyên bản nhất trong lịch sử tu đức: Tưởng niệm của Blaise Pascal. Nó bắt đầu thế này: “Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của Isaac, Thiên Chúa của Gia-cóp, không phải của các triết gia và học giả. Sự chắc chắn, chắc chắn. Tình cảm. Niềm vui. Hòa bình. Thiên Chúa của Chúa Giêsu Kitô”. Tác phẩm tưởng niệm này, được viết trên một tờ giấy nhỏ, và được tìm thấy sau khi ông qua đời, được may bên trong chiếc áo của triết gia, cho thấy rằng nó không phải là một suy tư trí tuệ mà một người khôn ngoan như ông có thể hiểu về Thiên Chúa, nhưng là cảm giác sống động, được cảm nghiệm, về sự hiện diện của Người. Ông Pascal thậm chí còn ghi lại khoảnh khắc chính xác mà ông cảm thấy thực tế đó, cuối cùng ông đã gặp nó: vào tối ngày 23/11/1654. Đó không phải là một Thiên Chúa trừu tượng hay vị Thần của vũ trụ. Người là Thiên Chúa của một con người, của một tiếng gọi, Thiên Chúa của Áp-ra-ham, của I-sa-ác, của Gia-cóp… Thiên Chúa Đấng là sự chắc chắn, là tình cảm, là niềm vui.
Sự hoàn toàn vâng theo ý Chúa của ông Áp-ra-ham
Giáo lý Hội thánh Công giáo dạy: “Kinh nguyện của ông Áp-ra-ham được thể hiện trên hết bằng hành động: con người thinh lặng, ở mỗi giai đoạn, ông xây dựng một bàn thờ cho Chúa” (Giáo lý Hội thánh Công giáo, 2570). Ông Áp-ra-ham không xây một đền thờ, nhưng rải trên đường ông đi những tảng đá nhắc nhớ Thiên Chúa đã đi qua đó. Một Thiên Chúa gây ngạc nhiên, khi Người đến thăm ông trong hình hài của ba vị khách mà ông và bà Sarah tiếp đón nồng nhiệt, và các ngài đã thông báo cho họ biết về sự ra đời của con trai I-sa-ác (x. St 18, 1-15). Ông Áp-ra-ham đã 100 tuổi và vợ ông 90 tuổi, khoảng đó. Và họ đã tin. Họ tin tưởng vào Thiên Chúa. Và bà Sa-ra, vợ ông, đã mang thai. Ở tuổi đó! Đây là Thiên Chúa của ông Áp-ra-ham, Thiên Chúa của chúng ta, Đấng đồng hành với chúng ta.
Do đó, ông trở nên quen thuộc với Thiên Chúa, có thể tranh luận với Người, nhưng luôn trung thành, thậm chí cho đến bị thử thách hết mức, khi Thiên Chúa yêu cầu ông tế lễ hy sinh con trai của mình là I-sa-ác, đứa con của tuổi già, con duy nhất, con thừa tự. Ở đây, ông Áp-ra-ham sống đức tin như một bi kịch, như cuộc hành trình giữa đêm đen, dưới bầu trời lần này không có sao. Và nhiều lần nó cũng xảy đến với chúng ta như thế, đi trong đêm tối, nhưng với đức tin. Chính Thiên Chúa sẽ ngăn bàn tay của ông Áp-ra-ham khi ông đã sẵn sàng để sát tế con mình, vì Người đã thấy sự sẵn lòng thực sự của ông (x. St 22, 1-19).
Học cầu nguyện như ông Áp-ra-ham: lắng nghe, trò chuyện, tranh luận, nhưng luôn với đức tin
Chúng ta hãy học theo ông Áp-ra-ham, học cầu nguyện bằng đức tin: lắng nghe Chúa, bước đi, đối thoại để thảo luận. Chúng ta đừng sợ tranh luận với Thiên Chúa, ngay cả nói một điều có vẻ như lạc đạo. Nhiều lần tôi đã nghe người ta nói với tôi “Cha có biết không, điều này xảy ra với con và con nổi giận với Chúa” – “Nhưng con có dám giận Chúa sao?” – “Dạ có, con nổi giận!” Nhưng đây là một hình thức cầu nguyện bởi vì chỉ có con cái mới có thể nổi giận với cha mình và sau đó gặp lại ông. Chúng ta hãy học ông Áp-ra-ham, trò chuyện và tranh luận, với đức tin, nhưng luôn sẵn sàng đón nhận lời Chúa và đưa nó vào thực hành. Với Chúa, chúng ta học cách nói chuyện như một người con với cha của mình; lắng nghe Người, trả lời, tranh luận. Nhưng rõ ràng thẳng thắn như con cái với cha. Ông Áp-ra-ham dạy chúng ta cầu nguyện như thế.
Nguồn: vaticannews.va/vi
Ngày 10.06.2020
Bài 06: Lời cầu nguyện của Gia-cóp
Sách Sáng thế, thông qua những sự kiện trong cuộc đời của những người sống vào các thời đại xa xôi, kể cho chúng ta những câu chuyện mà trong đó chúng ta có thể thấy phản chiếu cuộc sống của chúng ta. Trong loạt truyện về các tổ phụ, chúng ta cũng thấy chuyện một người đã biến sự tinh ranh thành năng khiếu nổi nhất của mình: đó là ông Gia-cóp. Câu chuyện Kinh Thánh cho chúng ta biết về mối quan hệ khó khăn giữa Gia-cóp với anh trai Esau. Ngay từ khi còn nhỏ, giữa họ đã có sự cạnh tranh và sự cạnh tranh này sẽ không bao giờ được khắc phục. Gia-cóp là em của người anh song sinh nhưng bằng sự lừa dối, ông đã cướp đi phước lành và món quà của cha mình là Isaac dành cho người con trưởng (x. St 25,19-34). Đó chỉ là lần đầu tiên trong một loạt nhiều thủ đoạn mà người thủ đoạn này có khả năng làm. Ngay cả tên gọi “Gia-cóp” có nghĩa là tính cách của người biết hành động không thẳng thắn, nghĩa là gian xảo khi hành động.
Thành công nhờ sự tinh ranh khéo léo
Buộc phải chạy trốn anh trai của mình, trong cuộc đời, ông dường như thành công trong mọi nỗ lực. Ông có kỹ năng kinh doanh: ông trở nên rất giàu có, trở thành chủ sở hữu của một đàn gia súc thật lớn. Với sự kiên trì và kiên nhẫn, ông có thể kết hôn với cô con gái xinh đẹp nhất của Laban, người ông thực sự yêu. Gia-cóp – chúng ta sẽ nói với ngôn ngữ hiện đại – là một người “tự mình xoay sở”, anh ta có thể chinh phục mọi thứ anh ta muốn bằng tài khéo và sự tinh ranh. Nhưng ông thiếu mối quan hệ sống động với nguồn cội của mình.
Cuộc vật lộn với Thiên Chúa
Một ngày nọ, ông nghe thấy tiếng gọi của quê nhà, của quê hương xa xưa của mình, nơi người anh Esau có lẽ vẫn sống, người anh trai mà ông luôn có mối quan hệ rất tồi tệ. Gia-cóp lên đường và trải qua một hành trình dài với một đoàn người và thú vật đông đảo, cho đến khi ông đến điểm dừng chân cuối cùng, tại suối Jabbok. Ở đây, sách Sáng Thế cung cấp cho chúng ta một trang đáng nhớ (x. 32,23-33). Sách nói rằng vị tổ phụ, sau khi đã đưa tất cả người dân và gia súc của mình băng qua suối, một mình ở lại trên bờ đất dân ngoại. Và ông nghĩ: điều gì chờ đợi ông vào ngày hôm sau? Anh trai Esau đã bị ông cướp quyền trưởng nam sẽ có thái độ nào? Tâm trí của Gia-cóp là một cơn lốc của những suy nghĩ … Và, khi trời tối, đột nhiên một người lạ tóm lấy ông và bắt đầu chiến đấu với ông. Sách Giáo lý giải thích: “Truyền thống tu đức của Giáo hội đã thấy trong câu chuyện này biểu tượng của việc cầu nguyện như một cuộc chiến của đức tin và chiến thắng của sự kiên trì” (GLHTCG, 2573).
Cuộc chiến diện đối diện với Chúa
Ông Gia-cóp đã chiến đấu suốt đêm, không lúc nào buông tay đối thủ. Cuối cùng, ông đã chiến thắng, bị đối thủ của mình tấn công vào dây thần kinh tọa, và kể từ đó ông bị khập khiễng suốt đời. Vị đô vật bí ẩn đó hỏi tên vị tổ phụ và nói với ông: “Ông sẽ không còn được gọi là Gia-cóp, mà là Israel. Ông không còn là người hành động như trước nhưng thẳng thắn. Ông được đổi tên, thay đổi cuộc đời, thay đổi cách sống. Ông sẽ được gọi là Israel bởi vì ông đã chiến đấu với Chúa và với con người và ông đã chiến thắng!” (c. 29). Rồi Gia-cóp cũng hỏi người kia: “Hãy cho tôi biết tên của ngài.” Người đó không tiết lộ cho ông biết tên, nhưng thay vào đó đã chúc lành cho ông và ông Gia-cóp nhận ra rằng ông đã gặp Thiên Chúa “diện đối diện” (x. cc. 30-31).
Sau cuộc vật lộn, ông Gia-cóp được biến đổi
Vật lộn với Chúa là một ẩn dụ của việc cầu nguyện. Những lần khác, Gia-cóp đã cho thấy mình có khả năng đối thoại với Chúa, cảm thấy Chúa hiện diện thân thiện và gần gũi. Nhưng vào đêm đó, qua một cuộc chiến đấu kéo dài và thấy mình gần như không chịu nổi, vị tổ phụ đã thay đổi. Đổi tên, đổi cách sống và đổi nhân cách. Ông được biến đổi. Lần đó ông không còn làm chủ được tình hình – sự tinh ranh của ông không hữu dụng, ông không còn là chiến lược gia và người biết tính toán nữa, Chúa đưa ông trở lại với sự thật về con người phàm nhân, run rẩy và sợ hãi. Lần đầu tiên, Gia-cóp không có gì khác để trình bày với Thiên Chúa hơn là sự yếu đuối và bất lực của mình. Và chính ông Gia-cóp này đã nhận được phước lành từ Thiên Chúa, và với chúc lành này ông khập khiễng đi vào miền đất hứa: dễ bị tổn thương và bị tổn thương, nhưng với một trái tim mới. Có lần kia tôi nghe nói về một ông lão – một người tốt, một Kitô hữu tốt, nhưng là người tội lỗi! – rất tin tưởng vào Thiên Chúa. Và ông nói: “Thiên Chúa sẽ giúp tôi; Chúa không để tôi đơn độc. Tôi sẽ vào Thiên đàng, khập khiễng, nhưng tôi sẽ vào.” Trước đây, ông tự tin, dựa vào sự khôn lanh sắc sảo của mình; ân sủng không thấm nhập được vào con người ông; ông không cảm nhận lòng thương xót; không biết thế nào là lòng thương xót. Ông nghĩ: “Tôi ở đây. Tôi ra lệnh” không cần lòng thương xót. Nhưng Thiên Chúa đã cứu những gì đã mất. Người giúp ông hiểu rằng ông còn giới hạn, ông là người tội lỗi cần lòng thương xót và Người cứu độ ông.
Cuộc hẹn trong đêm tối cuộc đời với Chúa
Tất cả chúng ta đều có một cuộc hẹn trong đêm với Chúa, trong đêm tối của cuộc đời chúng ta, trong nhiều đêm của cuộc đời chúng ta: những khoảnh khắc đen tối, những khoảnh khắc tội lỗi, những khoảnh khắc mất phương hướng… Ở đó, luôn luôn có một cuộc hẹn với Chúa. Chúa sẽ làm chúng ta ngạc nhiên vào lúc chúng ta không mong đợi Người, khi chúng ta thấy mình thực sự cô đơn. Cũng trong đêm đó, khi chiến đấu với người lạ, chúng ta sẽ nhận ra rằng chúng ta chỉ là những người nghèo hèn, nhưng ngay lúc đó, khi cảm thấy mình nghèo hèn, chúng ta sẽ không phải sợ hãi: bởi vì lúc đó, Chúa sẽ đặt cho chúng ta một cái tên mới, chứa đựng ý nghĩa của cả cuộc đời chúng ta, nó sẽ thay đổi trái tim của chúng ta và ban cho chúng ta phước lành dành cho những người để mình được Chúa biến đổi. Đây là một lời mời tốt đẹp hãy để chúng ta được Chúa biến đổi. Chúa biết làm điều đó thế nào, bởi vì Người biết mỗi người trong chúng ta. Mỗi chúng ta đều có thể nói: “Lạy Chúa, Chúa biết con. Lạy Chúa, Chúa biết con. Xin hãy biến đổi con”.
Nguồn: vaticannews.va/vi
Ngày 17.06.2020
Bài 07: Lời cầu nguyện của Mô-sê
Anh chị em thân mến,
Trong hành trình của chúng ta về chủ đề cầu nguyện, chúng ta nhận ra rằng Thiên Chúa không bao giờ thích đối xử với những người cầu nguyện một cách “dễ dàng”. Và ngay cả ông Mô-sê cũng không phải là một người không yếu đuối trong giao tiếp, ngay từ những ngày đầu trong ơn gọi của ông.
Thiên Chúa gọi ông Mô-sê, con người “thất bại”, cho sứ vụ giải thoát dân Israel
Khi Thiên Chúa gọi ông Mô-sê, ông đang là người “thất bại”. Sách Xuất hành mô tả ông ở vùng đất Midian như một kẻ chạy trốn. Khi còn trẻ, ông đã cảm thấy thương xót người dân của mình, và ông cũng đã chọn lựa bảo vệ những người bị áp bức. Nhưng chẳng bao lâu sau, ông phát hiện ra rằng, mặc dù có ý tốt, từ đôi bàn tay ông không nảy sinh công lý mà chỉ có bạo lực. Giấc mơ vinh quang của ông tan vỡ như thế: ông không còn là một quan chức đầy triển vọng, được định sẵn cho một sự nghiệp thăng tiến nhanh chóng, mà là một người đã tận dụng các cơ hội, và giờ đây chăm sóc một đàn vật thậm chí không phải là của mình. Và chính trong sự thinh lặng của hoang địa Midian, Thiên Chúa gọi ông Mô-sê đến mặc khải của bụi gai cháy đỏ: “‘Ta là Thiên Chúa của cha ngươi, Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-xa-ác, Thiên Chúa của Gia-cóp.” Ông Mô-sê che mặt đi, vì sợ nhìn phải Thiên Chúa.” (Xh 3,6).
Ông Mô-sê từ chối vì thiếu tin tưởng vào Chúa
Một lần nữa, ông Mô-sê đáp lời Thiên Chúa, Đấng đang nói, Đấng mời gọi ông chăm sóc dân Israel, bằng sự sợ hãi. Ông đưa ra vấn nạn: ông không xứng đáng với sứ mệnh đó, không biết tên của Thiên Chúa, sẽ không được dân Israel tin tưởng, có tật nói lắp bắp … Từ ngữ thường xuyên xuất hiện trên môi của ông Mô-sê nhất, trong mỗi lời ông cầu nguyện với Thiên Chúa, là câu hỏi: “tại sao?”. Tại sao Chúa sai con đi? Tại sao Chúa muốn giải thoát dân tộc này? Trong Bộ Ngũ thư, thậm chí còn có một đoạn sách kịch tính, khi Thiên Chúa quở trách ông Mô-sê vì ông thiếu tin tưởng; sự thiếu lòng tin này sẽ khiến ông không được vào đất hứa (x. Ds 20,12).
Dù yếu đuối, ông Mô-sê không bao giờ bỏ rơi dân của mình
Với những nỗi sợ hãi này, với trái tim thường xuyên dao động này, làm thế nào ông Mô-sê có thể cầu nguyện? Thật ra, ông Mô-sê cũng là người phàm như chúng ta. Chúng ta cũng có những nghi ngờ, làm thế nào chúng ta có thể cầu nguyện? Chúng ta có ấn tượng mạnh không chỉ vì sự mạnh mẽ của ông nhưng cả vì sự yếu đuối này. Được Thiên Chúa trao trách nhiệm thông truyền Lề luật cho dân Chúa, là người thành lập việc phụng tự Thiên Chúa, là trung gian của các mầu nhiệm cao cả nhất, nhưng không vì lý do này mà ông sẽ không còn mối liên kết chặt chẽ với dân của mình, nhất là khi họ bị cám dỗ và phạm tội. Ông luôn gắn bó với dân. Ông không bao giờ quên dân. Đây là sự vĩ đại của các mục tử: không bao giờ quên dân, không bao giờ quên nguồn cội. Như thánh Phao-lô nói với môn đệ Ti-mô-thê thân yêu của ngài: “Hãy nhớ mẹ và bà của con, nhớ nguồn cội và dân tộc của con” . Ông Mô-sê gần gũi với Thiên Chúa đến nỗi ông có thể nói chuyện trực tiếp với Người (x. Xh 33,11); và ông sẽ vẫn gần gũi với con người đến mức cảm thấy xót xa cho tội lỗi của họ, cho những cám dỗ của họ, cho nỗi nhớ bất chợt về quá khứ của những người lưu vong, nhớ lại khi họ ở Ai Cập.
Ông Mô-sê là người có tinh thần nghèo khó
Ông Mô-sê không chối từ Thiên Chúa, cũng không chối từ dân tộc của mình. Do đó, ông Mô-sê không phải là một nhà lãnh đạo độc tài và chuyên chế; trái lại, sách Dân số định nghĩa ông “khiêm tốn và hiền lành hơn mọi người trên trái đất” (x. 12.3). Bất chấp điều kiện đặc quyền của mình, ông Mô-sê vẫn thuộc về nhóm người nghèo khó trong tinh thần, những người sống bằng cách biến niềm tin tưởng vào Thiên Chúa thành lương thực trong cuộc hành trình của họ.
Cách cầu nguyện của ông Mô-sê: chuyển cầu cho dân
Cách cầu nguyện thích hợp nhất của ông Môsê sẽ là sự chuyển cầu (x. Giáo lý Hội thánh Công giáo, 2574). Niềm tin vào Thiên Chúa của ông trở nên một với cảm thức ông là một người cha của dân tộc mình. Kinh Thánh thường mô tả ông với đôi bàn tay vươn lên, hướng về Thiên Chúa, bằng chính con người mình, ông trở thành chiếc cầu nối giữa trời và đất. Ngay cả trong những thời khắc khó khăn nhất, ngay cả vào ngày mà mọi người chối từ Thiên Chúa và từ chối xem ông như một người lãnh đạo, và tạc cho họ một con bò vàng, ông Mô-sê không cảm thấy muốn bỏ dân của ông. Đó là dân của con. Đó là dân của Chúa. Ông không chối bỏ Thiên Chúa và cũng không chối từ dân của mình. Và ông thưa với Chúa: “Dân này đã phạm một tội lớn! Họ đã làm cho mình một tượng thần bằng vàng! Nhưng giờ đây, ước gì Chúa miễn chấp tội họ… Bằng không, nếu Chúa không tha thứ cho tội lỗi này, thì xin Chúa xoá tên con khỏi cuốn sách Ngài đã viết.” (Xh 32,31-32). Ông Mô-sê không thương lượng với dân chúng. Ông là cây cầu, là người cầu khẩn. Ông là người đứng giữa dân Chúa và Chúa. Ông không bán đứng dân mình vì sự nghiệp. Ông không phải là người tìm cách leo thang danh vọng, ông là người chuyển cầu: vì dân của mình, vì máu thịt của mình, vì lịch sử của dân, vì dân tộc và vì Thiên Chúa Đấng đã gọi ông. Ông là cây cầu nối.
Ông Mô-sê là gương mẫu cho các mục tử
Ông Mô-sê là một gương mẫu cho tất cả các mục tử, những người phải là “cầu nối”. Vì thế, họ được gọi là pontifex, những cây cầu. Mục tử là cầu nối giữa những người mà họ thuộc về với Thiên Chúa, Đấng mà theo ơn gọi, họ thuộc về. Ông Mô-sê cũng vậy. “Xin Chúa tha thứ cho tội lỗi của họ, nếu Chúa không tha thứ, xin hãy xóa con khỏi cuốn sách mà Chúa đã viết. Con không muốn dùng dân của mình để tiến thân.
Không lên án nhưng cầu nguyện cho người thiếu sót, tội lỗi
Đây là lời kinh nguyện mà các tín hữu chân chính cũng phải thực hiện trong đời sống tâm linh của họ. Ngay cả khi họ nhìn thấy những thiếu sót và sự xa cách của con người với Thiên Chúa, khi cầu nguyện, họ không lên án những người này, không từ chối họ. Thái độ cầu thay nguyện giúp là thái độ của các vị thánh, những người, khi bắt chước Chúa Giêsu, trở thành những “cầu nối” giữa Thiên Chúa và dân của Người. Theo nghĩa này, ông Mô-sê là vị ngôn sứ vĩ đại nhất của Chúa Giêsu, người bênh vực và khẩn cầu của chúng ta (x. Giáo lý Giáo hội Công giáo, 2577).
Ngay cả ngày nay, Chúa Giê-su là cầu nối giữa chúng ta và Chúa Cha. Và Chúa Giê-su khẩn cầu cho chúng ta, cho Chúa Cha thấy các vết thương, cái giá Người chịu vì ơn cứu độ chúng ta và khẩn cầu cho chúng ta. Và ông Mô-sê là hình ảnh của Chúa Giê-su Đấng khẩn cầu ngày nay, cầu nguyện cho chúng ta và chuyển cầu cho chúng ta.
Khi tức giận ai, hãy cầu nguyện cho họ
Ông Mô-sê kêu gọi chúng ta cầu nguyện nhiệt thành như Chúa Giêsu, cầu xin cho thế giới, nhớ rằng bất chấp mọi yếu đuối của nó, thế giới luôn thuộc về Thiên Chúa. Tất cả thuộc về Thiên Chúa. Những người tội lỗi xấu xa nhất, những người gian ác nhất, những lãnh đạo tham nhũng nhất, những người con của Thiên Chúa và Chúa Giê-su cảm thấy điều này và cầu nguyện cho tất cả. Và thế giới sống và phát triển nhờ phúc lành của người công chính, nhờ lời cầu xin lòng thương xót mà thánh nhân, người công chính, người chuyển cầu, linh mục, giám mục, Đức Giáo hoàng, giáo dân, bất cứ ai đã được rửa tội, không ngừng dâng lên vì con người, ở mọi nơi và mọi thời điểm trong lịch sử. Chúng ta hãy nghĩ đến ông Mô-sê, người chuyển cầu. Và khi chúng ta có ý muốn kết án ai và chúng ta cảm thấy tức giận trong lòng… Bạn phải làm gì khi tức giận? Hãy đi cầu nguyện cho người đó. Điều này giúp chúng ta rất nhiều.
Nguồn: vaticannews.va/vi
Ngày 24.06.2020
Bài 08: Lời cầu nguyện của Đa-vít
Anh chị em thân mến,
Trong hành trình tìm hiểu giáo lý về cầu nguyện, hôm nay chúng ta gặp Vua Đavít. Được Thiên Chúa yêu quý từ khi còn là một cậu bé, Đa-vít được chọn để thi hành một sứ vụ duy nhất; ông sẽ đảm nhận vai trò trung tâm trong lịch sử của dân Chúa và đức tin của chúng ta. Trong Tin mừng, Chúa Giêsu được gọi nhiều lần là “con vua Đa-vít”; thật ra, giống như ông, Chúa được sinh ra tại Bê-lem. Theo lời hứa, Đấng Mê-si-a sẽ xuất phát từ dòng dõi của Đa-vít: một vị Vua hoàn toàn theo ý muốn của Thiên Chúa, trong sự vâng phục Chúa Cha hoàn toàn, ông trung thành thực hiện kế hoạch cứu độ của Chúa (x. Giáo lý Giáo hội Công giáo, 2579).
Đa-vít: một mục tử
Câu chuyện của Đa-vít bắt đầu trên những ngọn đồi xung quanh Bê-lem, nơi ông chăm sóc đàn chiên của cha, ông Giê-sê. Đa-vít vẫn là một cậu bé, người em út của nhiều anh em. Đến nỗi khi tiên tri Samuel, theo lệnh của Thiên Chúa, lên đường tìm kiếm vị vua mới, cha của Đa-vít dường như đã quên mất đứa con trai út đó (x. 1 Sm 16,1-13). Cậu làm việc ngoài đồng: chúng ta nghĩ anh ấy là một người bạn của gió, của các âm thanh của thiên nhiên, của những tia nắng mặt trời. Cậu chỉ có một người bạn để an ủi tâm hồn mình, đó là cây đàn, và trong những ngày dài đơn độc, cậu ta thích chơi đàn và ca hát ngợi khen Chúa. Cậu cũng thích chơi với cái ná.
Do đó, Đa-vít trước hết là một mục tử: một người chăm sóc các thú vật, người bảo vệ chúng khi gặp nguy hiểm, người cung cấp thức ăn nuôi dưỡng chúng. Khi theo ý muốn của Thiên Chúa, Đa-vít sẽ phải chăm sóc cho dân Chúa, việc ông làm sẽ không khác lắm với những điều này. Đó là lý do tại sao hình ảnh người mục tử thường xuất hiện trong Kinh Thánh. Chính Chúa Giêsu cũng định nghĩa mình là “mục tử tốt lành”, người hành động khác với những người chăn thuê; Chúa hiến mạng sống mình vì chiên, Người hướng dẫn họ, biết tên của từng con chiên (x. Ga 10,11-18).
Đa-vít đã học được rất nhiều từ công việc trước đây của mình. Vì vậy, khi ngôn sứ Na-tan quở trách ông vì tội lỗi rất nặng nề của ông (x. 2 Sm 12,1-15), Đa-vít hiểu ngay rằng ông là một mục tử xấu, rằng ông đã cướp lấy con chiên duy nhất, yêu quý của một người khác, rằng ông không còn là một tôi tớ khiêm nhường, mà là một người điên cuồng vì quyền lực, một kẻ săn trộm giết người và cướp bóc.
Đa-vít với tâm hồn thi sĩ
Một đặc điểm thứ hai cũng có trong ơn gọi của Đa-vít là tâm hồn thi sĩ của ông. Từ sự quan sát đơn sơ này, chúng ta có thể suy luận rằng Đa-vít không phải là một người đàn ông thô tục, như thường xảy ra với những người bị buộc phải sống cô lập với xã hội trong thời gian dài. Ngược lại, ông là một người nhạy cảm, yêu âm nhạc và ca hát. Chiếc đàn hạc của ông luôn ở bên ông: đôi khi để dâng lên Chúa một bài thánh thi vui mừng với (x. 2 Sm 6,16), những lần khác để bày tỏ một lời than thở, hoặc thú nhận tội lỗi của chính mình (x. Tv 51,3).
Chiêm niệm mầu nhiệm cuộc sống
Thế giới xuất hiện trước mắt ông Đa-vít không phải là một khung cảnh câm lặng: khi mọi thứ được bày tỏ trước mắt ông, ông nhận thấy một mầu nhiệm lớn hơn. Đó chính là nơi cầu nguyện phát sinh: từ xác tín rằng cuộc sống không phải là thứ bất ngờ xảy đến với chúng ta, mà là một mầu nhiệm đáng kinh ngạc truyền cảm hứng cho thơ ca, âm nhạc, lòng biết ơn, lời khen ngợi, thậm chí là than thở và cầu xin trong chúng ta. Khi một người thiếu chiều kích thi ca thì tâm hồn người đó bị khập khểnh. Do đó, theo truyền thống, Đa-vít là nghệ sĩ vĩ đại trong việc sáng tác các Thánh vịnh. Nhiều Thánh vịnh, ngay từ đầu đã đề cập rõ ràng đến vị vua của Israel và đến một số sự kiện ít nhiều nổi bật trong cuộc đời ông.
Do đó, vua Đa-vít có một giấc mơ: giấc mơ của một mục tử tốt. Đôi khi ông có thể thực hiện tốt nhiệm vụ đó, đôi khi ít thành công hơn. Tuy nhiên, điều quan trọng là trong bối cảnh của lịch sử cứu độ, chính ông là một lời tiên tri về một vị Vua khác, người mà ông chỉ loan báo và là hình bóng.
Cầu nguyện: trò chuyện với Chúa về mọi điều trong cuộc sống
Chúng ta hãy nhìn ngắm vua Đa-vít, hãy suy nghĩ về ông. Thánh thiện và tội lỗi, bị bắt bớ và là người bắt bớ, nạn nhân và kẻ giết người. Đa-vít là tất cả những điều này. Và trong cuộc sống của mình, chúng ta cũng đã ghi lại những sự kiện thường trái ngược nhau; trong cuộc sống, tất cả mọi người thường phạm tội vì sự không nhất quán. Có một sợi chỉ đỏ duy nhất chạy suốt cuộc đời vua Đa-vít, liên kết mọi thứ xảy ra: đó là lời cầu nguyện của ông. Đó là tiếng nói không bao giờ bị dập tắt. Đa-vít thánh thiện, cầu nguyện; Đa-vít tội lỗi, cầu nguyện; Đa-vít người bách hại, cầu nguyện; Đa-vít nạn nhân, cầu nguyện. Ngay cả Đa-vít bạo chúa, cầu nguyện. Đây là sợi chỉ đỏ trong cuộc sống của ông. Một con người cầu nguyện. Đó là tiếng nói không bao giờ tắt: nó là những giai điệu tưng bừng hay than thở, nó luôn luôn là lời cầu nguyện, chỉ có giai điệu thay đổi. Khi làm như vậy, vua Đa-vít dạy chúng ta hãy đưa mọi sự vào cuộc đối thoại với Chúa: niềm vui cũng như cảm giác tội lỗi, tình yêu cũng như đau khổ, tình bạn cũng như bệnh tật. Tất cả mọi thứ có thể trở thành một lời thốt ra với “Ngài”, Đấng luôn lắng nghe chúng ta.
Cầu nguyện đặt chúng ta trong bàn tay Chúa
Vua Đa-vít, người đã biết về sự đơn độc, trong thực tế lại không bao giờ cô đơn! Cuối cùng, đây là sức mạnh của lời cầu nguyện nơi tất cả những người biết dành chỗ cho cầu nguyện trong cuộc sống của họ. Cầu nguyện làm cho bạn trở nên cao thượng, và Đa-vít cao thượng bởi vì ông cầu nguyện. Nhưng ông là một đao phủ, ông cầu nguyện, ăn năn và ông trở lại cao quý nhờ lời cầu nguyện. Cầu nguyện cho chúng ta sự cao quý: nó có khả năng đảm bảo mối quan hệ của họ với Thiên Chúa, là Người Đồng hành thực sự trên hành trình của mỗi người, giữa muôn ngàn nghịch cảnh của cuộc sống, tốt lành hay xấu xa: nhưng luôn luôn cầu nguyện. Con cảm ơn Chúa. Con sợ Chúa. Lạy Chúa xin hãy giúp con. Lạy Chúa, xin tha thứ cho con. Đa-vít rất tín thác đến nỗi khi bị bắt bớ và phải chạy trốn, ông đã không để ai bảo vệ mình: “Nếu Chúa của tôi làm nhục tôi như thế này, Người biết”, bởi vì sự cao quý của cầu nguyện để chúng ta trong tay Chúa. Đôi tay chịu thương tích của tình yêu, và đôi tay an toàn duy nhất mà chúng ta có.
Nguồn: vaticannews.va/vi
Ngày 07.10.2020
Bài 09: Lời cầu nguyện của ngôn sứ Ê-li-a
Anh chị em thân mến,
Hôm nay, chúng ta tiếp tục các bài giáo lý về cầu nguyện, và chúng ta gặp một trong những nhân vật hấp dẫn nhất trong toàn bộ Kinh Thánh: ngôn sứ Ê-li-a. Ông vượt qua các ranh giới của thời đại của ông và chúng ta có thể thấy sự hiện diện của ông ngay cả trong một số đoạn Phúc âm. Ông hiện ra bên cạnh Chúa Giêsu, cùng với ông Mô-sê, khi Chúa Giê-su biến hình (x. Mt 17,3). Chính Chúa Giêsu đã nói đến ông Ê-li-a để công nhận lời chứng của Gioan Tẩy Giả (x. Mt 17, 10-13).
Trong Kinh thánh, ông Ê-li-a xuất hiện đột ngột, một cách bí ẩn, đến từ một ngôi làng nhỏ, hoàn toàn xa xôi (x. 1V 17,1); và cuối cùng ông rời đi, trước mắt của môn đệ Ê-li-sê, trên một cỗ xe lửa sẽ đưa ông vào thiên đàng (x. 2V 2,11-12). Do đó, ông là một người không có nguồn gốc chính xác, và trên hết là không có điểm kết thúc, được đưa lên thiên đàng: vì lý do này, ông được mong đợi trở lại trước khi Đấng Cứu Thế đến, như một vị tiền hô. Vì vậy, Ê-li-a được mong đợi trở lại.
Kinh thánh trình bày với chúng ta về ông Ê-li-a như một người có đức tin kết tinh: chính tên của ông, có thể có nghĩa là “Gia-vê là Thiên Chúa”, chứa đựng bí mật về sứ mệnh của ông. Trong suốt cuộc đời ông sẽ là: một người chính trực, không có khả năng thỏa hiệp với những điều nhỏ nhặt tầm thường. Biểu tượng của ông là lửa, hình ảnh của quyền năng thanh tẩy của Thiên Chúa. Ông sẽ là người đầu tiên bị thử thách khắc nghiệt và vẫn trung thành. Ông là tấm gương của tất cả những người có đức tin, đã biết đến những cám dỗ và đau khổ, nhưng không ngừng sống đến cùng lý tưởng mà vì đó họ được sinh ra.
Đời sống cầu nguyện
Cầu nguyện là nhựa sống không ngừng nuôi sống ông. Đây là lý do tại sao ông là một trong những người được yêu quý nhất của truyền thống đan tu, đến nỗi một số đã chọn ông làm cha thiêng liêng của đời sống thánh hiến cho Thiên Chúa. Ông Ê-li-a là người của Thiên Chúa, là người bảo vệ quyền tối thượng của Đấng Tối Cao. Tuy nhiên, ông cũng phải đối phó với sự yếu đuối của chính mình. Khó có thể nói những kinh nghiệm nào hữu ích nhất đối với ông: có phải là sự thất bại của các tiên tri giả trên núi Carmel (x. 1V 18,20-40), hay sự bối rối khi ông ghi nhận rằng “ông không hơn các tổ phụ của mình” (x. 1V 19,4). Trong tâm hồn của những người cầu nguyện, cảm giác về sự yếu đuối của bản thân quý giá hơn những khoảnh khắc được tôn vinh, khi dường như cuộc sống là một chuỗi của những chiến thắng và thành công.
Trong lúc cầu nguyện, luôn xảy ra điều này: chúng ta cảm thấy có những thời khắc cầu nguyện đưa chúng ta lên cao, và cả sự nhiệt thành; và có những giây phút cầu nguyện đau đớn, khô khan, thử thách… Cầu nguyện là như thế này: hãy để Chúa nâng mình lên và hãy để bản thân bị đánh bởi những tình huống xấu và thậm chí bởi những cám dỗ. Đây là một thực tế rằng cầu nguyện là như thế, được tìm thấy trong nhiều ơn gọi khác trong Kinh Thánh, ngay cả trong Tân ước, ví dụ chúng ta hãy nghĩ về thánh Phê-rô và thánh Phao-lô. Cuộc đời các ngài là như thế: có những giây phút hân hoan và cũng có những thời khắc chìm xuống, đau khổ.
Đời sống hoạt động xuất phát từ chiêm niệm
Ông Ê-li-a là người có đời sống chiêm niệm, đồng thời là người hoạt động, quan tâm đến các biến cố của thời đại mình, dám đả kích vua và hoàng hậu sau khi họ đã giết ông Na-bốt để chiếm vườn nho của ông (x. 1V 21,1-24). Các tín hữu chúng ta, những Ki-tô hữu nhiệt thành cũng cần điều này biết bao để có lòng can đảm của ông Ê-li-a, phản ứng trước người có trách nhiệm lãnh đạo, dám nói: “Không được làm điều này! Điều này là giết người!” Chúng ta cần tinh thần của ông Ê-li-a. Vì vậy, ông cho chúng ta thấy rằng không được có sự phân đôi trong đời sống của những người cầu nguyện, không có sự khác nhau: họ đứng trước mặt Chúa và đi gặp anh em mà Người sai họ đi.
Cầu nguyện và hành động; hành động sau khi cầu nguyện
Cầu nguyện không phải là đóng kín chỉ mình với Chúa để trang điểm cho tâm hồn mình. Đây là cầu nguyện giả vờ. Cầu nguyện là gặp Chúa và để chính mình được sai đi để phục vụ anh chị em. Thử thách của việc cầu nguyện là tình yêu cụ thể đối với tha nhân. Và ngược lại: các tín hữu hành động trong thế giới sau khi đã thinh lặng và cầu nguyện; nếu không thì hành động của họ là bốc đồng, thiếu sáng suốt, đó là sự vội vã điên cuồng mà không có mục tiêu. Khi các tín hữu làm như thế, họ làm những điều bất công, bởi vì họ không đến với Chúa trước để cầu nguyện, để phân định điều gì phải làm.
Kinh nghiệm đức tin
Các trang của Kinh thánh cho phép chúng ta giả định rằng ngay cả đức tin của Ê-li-a cũng có sự tiến triển: ông cũng lớn lên trong lời cầu nguyện, trau dồi nó từng chút một. Trên hành trình, gương mặt Thiên Chúa trở nên rõ ràng hơn đối với ông. Cho đến khi đạt đến đỉnh điểm trong kinh nghiệm phi thường đó, khi Thiên Chúa hiện ra với ông Ê-li-a trên núi Hô-rép (x. 1V 19,9-13). Thiên Chúa không hiện ra trong gió bão cuồng nộ, không ở trong trận động đất hay ngọn lửa thiêu rụi, mà trong “tiếng gió nhẹ hiu hiu” (c. 12). Chính bằng dấu hiệu khiêm nhường này mà Thiên Chúa giao tiếp với Ê-li-a, khi đó là một nhà tiên tri bỏ trốn, mất bình an. Thiên Chúa đến gặp một con người mệt mỏi, một người tưởng rằng mình đã thất bại trên mọi mặt trận, và với làn gió nhẹ hiu hiu ấy, với chuỗi thinh lặng trầm lắng, tâm hồn ông tìm lại sự bình tĩnh và bình yên.
Câu chuyện Ê-li-a là câu chuyện dành cho tất cả chúng ta
Đây là câu chuyện về Ê-li-a, nhưng có vẻ như nó được viết cho tất cả chúng ta. Trong một vài chiều tối, chúng ta có thể cảm thấy mình vô dụng và đơn độc. Chính lúc đó lời cầu nguyện sẽ đến và gõ cửa trái tim chúng ta. Tất cả chúng ta đều có thể nhận lấy một mảnh áo choàng của Ê-li-a, như môn đệ Ê-li-sê của ông đã nhận lấy nửa tấm áo choàng của ông. Và ngay cả khi chúng ta đã làm sai điều gì đó, hoặc chúng ta cảm thấy bị đe dọa và sợ hãi, khi trở về với Chúa bằng lời cầu nguyện, sự thanh thản và bình an cũng sẽ trở lại như thể bởi một phép lạ. Đây là điều Ê-li-a dạy chúng ta.
Nguồn: vaticannews.va/vi
Ngày 14.10.2020
Bài 10: Lời cầu nguyện trong các thánh vịnh (phần I)
Anh chị em thân mến, chào anh chị em!
Khi đọc Kinh Thánh, chúng ta liên tục bắt gặp những lời cầu nguyện thuộc nhiều loại khác nhau. Nhưng chúng ta cũng tìm thấy một cuốn sách chỉ gồm toàn những lời cầu nguyện, là phòng tập luyện và là nhà của muôn vàn người cầu nguyện. Đó là sách Thánh Vịnh. Nó gồm 150 thánh vịnh để cầu nguyện.
Sách Thánh Vịnh được kể vào loại sách khôn ngoan bởi vì nó truyền đạt “kiến thức về cách cầu nguyện” qua kinh nghiệm đối thoại với Thiên Chúa. Trong các Thánh vịnh chúng ta tìm thấy tất cả tình cảm của con người: niềm vui, nỗi buồn, nghi ngờ, hy vọng, sự cay đắng xen lẫn trong cuộc sống của chúng ta. Sách Giáo lý khẳng định rằng mỗi Thánh vịnh “rất đơn giản đến nỗi mọi người trong mọi hoàn cảnh và ở mọi thời đại có thể cầu nguyện bằng các Thánh vịnh” (GLCG, 2588).
Thánh vịnh là lời cầu nguyện được Chúa dạy
Khi chúng ta đọc đi đọc lại các Thánh vịnh, chúng ta học được ngôn ngữ cầu nguyện. Thật vậy, Thiên Chúa Cha, qua Thánh Thần của Người, đã linh hứng những lời này trong tâm hồn Vua Đa-vít và những người cầu nguyện khác, để dạy cho mọi người cách ngợi khen Chúa, cảm tạ Người, cầu xin Người, cầu khẩn Người khi vui mừng cũng như khi đau buồn, cách tường thuật những điều kỳ diệu trong các công trình và Luật của Chúa. Tóm lại, các bài Thánh vịnh là lời của Thiên Chúa mà loài người chúng ta dùng để trò chuyện với Người.
Thánh vịnh là kinh nghiệm sống
Trong cuốn sách này, chúng ta không gặp những người sống trên mây, những người trừu tượng, những người nhầm lẫn việc cầu nguyện với một cảm nghiệm về vẻ đẹp hoặc thứ cảm nghiệm làm con người không còn là thật như chính mình. Không. Các Thánh vịnh không phải là những bản văn mà tác giả ngồi ở bàn mà sáng tác; nhưng là những lời khẩn cầu, thường là bi thảm, bắt nguồn từ sự sống động của cuộc sống.
Cầu nguyện bằng chính con người thật sự của mình
Để cầu nguyện bằng các Thánh vịnh chúng ta chỉ cần là chính mình. Đừng quên điều này: để cầu nguyện tốt, chúng ta phải cầu nguyện như chính chúng ta là, không trang điểm. Đừng trang điểm tâm hồn để cầu nguyện. “Lạy Chúa, con là như thế này”, và hãy đến trước mặt Chúa như chúng ta là, với những điều đẹp đẽ và cả những điều xấu xa không ai biết, nhưng từ thâm tâm chúng ta biết. Trong các Thánh vịnh chúng ta nghe những lời cầu nguyện của những con người bằng xương bằng thịt, những người có cuộc sống giống như mọi người, đầy rẫy những vấn đề, những mệt mỏi và những bất ổn.
Vấn đề đau khổ
Vịnh gia không phản đối nỗi đau khổ này một cách triệt để nhưng biết rằng nó thuộc về cuộc sống; tuy nhiên, đau khổ được biến thành câu hỏi.
Và trong số rất nhiều câu hỏi, có một câu vẫn lơ lửng, giống như một tiếng kêu không ngừng xuyên suốt toàn bộ sách Thánh vịnh từ đầu này sang đầu kia. Một câu hỏi mà chúng ta lặp đi lặp lại nhiều lần: “Cho đến bao giờ, lạy Chúa? Cho đến bao giờ?” Mỗi nỗi đau đều đòi được giải thoát, mỗi giọt nước mắt cầu xin một niềm an ủi, mỗi vết thương chờ được chữa lành, mỗi lời vu khống cần một lời minh oan. “Lạy Chúa, con sẽ phải chịu đựng điều này cho đến bao giờ? Lạy Chúa, xin hãy nghe con!”. Đã bao lần chúng ta cầu nguyện như thế này: “Cho đến bao giờ? Xin dừng lại Chúa ơi… Cho đến khi nào?”.
Chúng ta quý giá đối với Thiên Chúa
Khi liên tục đặt những câu hỏi như vậy, các Thánh vịnh dạy chúng ta không xem nỗi đau là điều quen thuộc, và nhắc nhở chúng ta rằng sự sống không được cứu trừ khi nó được chữa lành. Sự hiện hữu của mỗi con người chỉ là một hơi thở, cuộc đời của chúng ta là phù vân, nhưng người cầu nguyện biết rằng mình quý giá trong mắt Thiên Chúa, vì vậy kêu khóc cũng có ý nghĩa. Và điều này quan trọng. Khi chúng ta đi cầu nguyện, chúng ta đi vì chúng ta biết mình quý giá trong mắt Thiên Chúa, và vì điều này, tôi đi cầu nguyện. Có thể bạn không nghĩ đến điều này nhưng trong vô thức, bạn biết điều đó! Đó là ân sủng của Chúa Thánh Thần trong nội tâm thúc đẩy bạn đi đến sự khôn ngoan này: bạn quý giá trong mắt Thiên Chúa, và vì điều này, bạn đi cầu nguyện.
Cầu nguyện: tiếng kêu cầu Chúa cứu độ
Lời cầu nguyện của các Thánh vịnh là bằng chứng của tiếng kêu này: một tiếng kêu đa đoan, bởi vì trong cuộc sống, nỗi đau có muôn ngàn hình hài, và có tên bệnh tật, hận thù, chiến tranh, bách hại, ngờ vực … cho đến “cớ vấp phạm ” tột cùng, đó là cái chết. Cái chết xuất hiện trong Thánh vịnh như một kẻ thù phi lý nhất của con người: tội gì đáng bị trừng phạt tàn nhẫn như thế, điều đưa đến sự hủy diệt và chấm dứt? Người cầu nguyện trong Thánh vịnh cầu xin Thiên Chúa can thiệp ở nơi mà mọi nỗ lực của con người đều vô ích. Do đó lời cầu nguyện, tự trong chính nó, là con đường cứu độ và khởi đầu của ơn cứu độ.
Mọi người đều đau khổ trong thế giới này: cho dù bạn tin vào Chúa hay từ chối Ngài. Nhưng trong sách Thánh vịnh nỗi đau trở thành mối quan hệ: một tiếng kêu cứu chờ đợi đôi tai lắng nghe. Nó không thể vẫn vô nghĩa, không có mục đích. Ngay cả những nỗi đau mà chúng ta phải gánh chịu cũng không thể chỉ là những trường hợp cụ thể của một quy luật chung: chúng luôn là những giọt nước mắt “của tôi”. Hãy suy nghĩ về điều này: nước mắt không phải là phổ quát, chúng là nước mắt “của tôi”. Mọi người đều có cái riêng của họ. Những giọt nước mắt “của tôi” và nỗi đau “của tôi” thúc đẩy tôi tiếp tục cầu nguyện. Đó là những giọt nước mắt của “tôi”, mà chưa ai từng rơi trước tôi. Vâng, nhiều người đã khóc, rất nhiều. Nhưng nước mắt “của tôi” là của tôi, nỗi đau “của tôi” là của riêng tôi, nỗi đau “của tôi” là của riêng tôi.
Trước khi bước vào Hội trường, tôi đã gặp cha mẹ của vị linh mục giáo phận Como đã bị sát hại: ngài bị giết chính xác là vì công việc phục vụ và giúp đỡ của ngài. Nước mắt của những bậc cha mẹ đó là nước mắt của chính họ, và mỗi người trong số họ đều biết mình đã đau khổ biết bao khi nhìn thấy người con đã hiến mạng sống mình để phục vụ người nghèo. Khi muốn an ủi ai đó, chúng ta không thể tìm được lời nói. Tại sao? Bởi vì chúng ta không thể chạm tới nỗi đau của họ, bởi vì nỗi đau của “họ” là của riêng họ, nước mắt của họ là của chính họ. Đối với chúng ta cũng vậy: những giọt nước mắt, nỗi đau khổ “của tôi” là của tôi, những giọt nước mắt là “của tôi”, và với những giọt nước mắt này, với nỗi đau khổ này tôi hướng về Chúa.
Chúa biết chúng ta từng người một
Đối với Chúa, mọi nỗi đau của con người đều thánh thiêng. Vì vậy, tác giả của Thánh vịnh 56 cầu nguyện: “Bước đường con lận đận, chính Ngài đã đếm rồi. Xin lấy vò mà đựng nước mắt con. Nào Ngài đã chẳng ghi tất cả vào sổ sách?” (c. 9) Trước mặt Chúa, chúng ta không phải là những người xa lạ, hay là những con số. Chúng ta là những khuôn mặt và trái tim, được biết đến từng người một, từng tên một.
Cánh cửa của Chúa vẫn luôn mở
Trong Thánh vịnh, người tin Chúa tìm thấy câu trả lời. Họ biết rằng ngay cả khi tất cả các cánh cửa của con người bị khóa, cánh cửa Chúa vẫn mở. Ngay cả khi cả thế giới đã ra phán quyết kết án, thì nơi Chúa vẫn có sự cứu rỗi.
“Chúa lắng nghe”: đôi khi trong cầu nguyện chỉ cần biết điều này là đủ. Thiên Chúa nói rằng các vấn đề không phải lúc nào cũng được giải quyết. Những người cầu nguyện không bị ảo tưởng: họ biết rằng nhiều câu hỏi của cuộc sống dưới thế này vẫn chưa được giải đáp, không có lối thoát; đau khổ sẽ đồng hành với chúng ta và, một khi chúng ta vượt qua một trận chiến, sẽ có những trận chiến khác đang chờ đợi chúng ta. Nhưng nếu chúng ta được lắng nghe, mọi thứ trở nên có thể chịu đựng được hơn.
Thiên Chúa khóc với chúng ta
Cầu nguyện cứu chúng ta khỏi tình cảnh tồi tệ nhất là bị bỏ rơi trong đau khổ, không được nhớ đến. Bởi vì có thể xảy ra là chúng ta không hiểu kế hoạch của Thiên Chúa. Nhưng tiếng kêu của chúng ta không bị đè nén ở đây: nó vươn lên tới Chúa, Đấng có trái tim của một người Cha, và chính Người khóc cho mọi con cái đau khổ và qua đời. Tôi sẽ nói với bạn một điều: trong những khoảnh khắc tồi tệ, thật tốt đối với tôi khi nghĩ đến Chúa Giêsu đang khóc, khi Người khóc thương thành Giêrusalem, khi Người khóc trước mộ Ladarô. Chúa khóc cho tôi, Chúa khóc vì nỗi đau của chúng ta. Bởi vì Chúa muốn trở thành con người để có thể khóc với chúng ta. Nghĩ rằng Chúa Giêsu khóc với mình trong đau khổ là một niềm an ủi: nó giúp chúng ta tiến bước.
Duy trì mối quan hệ với Chúa
Nếu chúng ta duy trì mối quan hệ với Thiên Chúa, thì dù cuộc sống không miễn cho chúng ta đau khổ, thì cả trong những đau khổ, nó mở ra một chân trời tốt đẹp và hướng chúng ta đến cùng đích. Hãy can đảm, hãy tiến bước bằng cầu nguyện. Chúa Giêsu luôn ở cùng chúng ta.
Nguồn: vaticannews.va/vi
Ngày 21.10.2020
Bài 11: Lời cầu nguyện trong các thánh vịnh (phần II)
Anh chị em thân mến, chào anh chị em!
Hôm nay, chúng ta cần thay đổi một chút cách tổ chức Buổi tiếp kiến vì virus Corona. Bạn bị tách biệt, với sự bảo vệ của mặt nạ, và tôi ở đây, hơi xa cách và tôi không thể làm điều tôi luôn làm, đến gần bạn, bởi vì mỗi khi tôi đến gần bạn, các bạn lại đến với nhau và chúng ta mất khoảng cách, và có nguy cơ lây nhiễm cho bạn. Tôi xin lỗi vì điều này, nhưng đó là vì sự an toàn của bạn. Thay vì đến gần bắt tay và chào nhau, chúng ta phải chào nhau từ xa, nhưng hãy biết rằng tôi đang ở gần bạn bằng trái tim mình. Tôi hy vọng rằng bạn hiểu tại sao tôi làm điều này. Ngoài ra, trong khi độc giả đang đọc đoạn Kinh thánh, sự chú ý của tôi bị thu hút bởi một bé trai hay bé gái đang khóc. Và tôi nhìn người mẹ đang âu yếm và cho đứa bé bú và tôi nghĩ: “Đây là điều Chúa làm với chúng ta, giống như người mẹ đó”. Với sự dịu dàng biết bao, cô đang cố gắng an ủi và chăm sóc đứa bé.
Chúng là những hình ảnh đẹp. Và khi điều này xảy ra trong Nhà thờ, khi một em bé khóc, người ta biết ở đó có sự dịu dàng của một người mẹ, giống như ngày nay có sự dịu dàng của một người mẹ là biểu tượng cho sự dịu dàng của Thiên Chúa đối với chúng ta. Đừng bao giờ làm cho một em bé đang khóc trong Nhà thờ im lặng, bởi vì chính tiếng nói đó thu hút được sự dịu dàng của Thiên Chúa. Cảm ơn gương chứng tá của bạn.
Sau đó ngài bắt đầu bài giáo lý về cầu nguyện với thánh vịnh (phần II):
Hôm nay chúng ta hoàn tất bài giáo lý về lời cầu nguyện bằng Thánh Vịnh. Chúng ta thấy nhân vật tiêu cực thường xuất hiện trong các Thánh vịnh, đó là “kẻ gian ác”, người sống như thể không có Thiên Chúa. Đó là người không hề nghĩ đến cõi siêu việt, không kiềm chế sự kiêu ngạo của mình, người không sợ những phán xét về những gì mình nghĩ và những gì mình làm.
Cầu nguyện là sự cứu rỗi của con người
Ngược với thái độ của kẻ gian ác, sách Thánh Vịnh trình bày việc cầu nguyện thật sự như một thực tế cơ bản của cuộc sống. Việc quy chiếu đến tuyệt đối và siêu việt – điều mà các bậc thầy tu đức gọi là “sự kính sợ thánh thiêng đối với Thiên Chúa” – là điều khiến chúng ta hoàn toàn là con người, là giới hạn cứu chúng ta khỏi chính mình, bằng cách ngăn cản chúng ta lao vào cuộc sống này theo cách săn mồi và phàm ăn. Cầu nguyện là sự cứu rỗi của con người.
Kiểu cầu nguyện giả dối: muốn được người khác ngưỡng mộ
Chắc chắn cũng có một cách cầu nguyện giả dối, cách cầu nguyện được thực hiện chỉ để được người khác ngưỡng mộ. Có những người đi dự Thánh lễ chỉ để chứng tỏ rằng họ là người Công giáo hoặc để khoe mốt mới nhất mà họ đã mua, hoặc để làm một nhân vật xã hội tốt. Họ cầu nguyện giả dối. Chúa Giêsu đã khiển trách nặng nề về điều này (x. Mt 6, 5-6; Lc 9,14). Nhưng khi tinh thần cầu nguyện thực sự được đón nhận cách chân thành và đi vào trái tim, thì nó khiến chúng ta chiêm ngưỡng thực tại bằng chính đôi mắt của Thiên Chúa.
Khi cầu nguyện, các anh chị em trở nên quan trọng
Khi chúng ta cầu nguyện như thế, mọi điều đều đạt đến “chiều sâu”, như thể Thiên Chúa cầm lấy nó và biến đổi nó. Việc phụng tự tồi tệ nhất mà chúng ta có thể dâng cho Chúa và cho cả nhân loại, là cầu nguyện cách mệt mỏi, theo thói quen. Cầu nguyện như vẹt. Không. Xin hãy cầu nguyện bằng trái tim. Cầu nguyện là trung tâm của cuộc sống. Nếu có cầu nguyện, thì ngay cả một người anh em, một người chị em, thậm chí là kẻ thù, cũng trở nên quan trọng. Một câu nói cổ của các tu sĩ Kitô giáo đầu tiên viết: “Phúc thay tu sĩ nào tôn trọng mọi người như Thiên Chúa, và theo cách của Thiên Chúa” (Evagrius Ponticus, Luận về Cầu nguyện, n.123). Ai thờ phượng Thiên Chúa thì yêu thương con cái của Ngài. Ai tôn kính Thiên Chúa thì tôn trọng con người.
Cầu nguyện không phải là liều thuốc an thần
Và vì vậy, cầu nguyện không phải là liều thuốc an thần để xoa dịu những lo lắng trong cuộc sống; kiểu cầu nguyện này chắc chắn không phải là của Ki-tô giáo. Đúng hơn, cầu nguyện giúp con người có trách nhiệm. Chúng ta thấy rõ điều này trong “Kinh lạy Cha” mà Chúa Giê-su đã dạy các môn đệ của Người.
Để học cách cầu nguyện theo cách này, sách Thánh vịnh là một trường học tuyệt vời. Chúng ta đã thấy các Thánh vịnh không luôn luôn sử dụng ngôn ngữ tinh tế và nhẹ nhàng, và cách chúng thường bày tỏ những vết sẹo của cuộc sống. Tuy nhiên, tất cả những lời cầu nguyện này lần đầu tiên được sử dụng trong Đền thờ, và sau đó là trong các hội đường; ngay cả những lời cầu nguyện sâu kín và cá nhân nhất. Sách Giáo lý Giáo hội Công giáo diễn đạt như thế này: “Nhiều hình thức cầu nguyện của sách Thánh Vịnh hình thành cả trong phụng vụ Đền thờ và trong tâm hồn con người” (n. 2588).
Lời cầu nguyện xuất phát từ bóng giáo đường, đến các đường phố
Và do đó, lời cầu nguyện cá nhân xuất phát từ và được nuôi dưỡng trước hết bằng lời cầu nguyện của dân Israel, sau đó là lời cầu nguyện của Giáo hội. Ngay cả những Thánh vịnh ở ngôi thứ nhất số ít, bày tỏ những suy tư và vấn đề sâu kín nhất của một cá nhân, cũng là một gia sản tập thể, đến mức chúng được mọi người cầu nguyện và cầu nguyện cho mọi người.
Lời cầu nguyện của Ki-tô hữu có “hơi thở” này, “sự căng thẳng” tâm linh này liên kết đền thờ và thế giới lại với nhau. Lời cầu nguyện có thể bắt đầu trong bóng tối của nhà thờ, nhưng sẽ kết thúc trên đường phố thành phố. Và ngược lại, nó có thể nảy sinh trong các hoạt động hàng ngày và đạt đến sự hoàn thiện trong phụng vụ. Cửa nhà thờ không phải là rào cản, mà là các “màng” thấm nước, sẵn sàng đón nhận tiếng kêu than của mọi người.
Cầu nguyện cho người nghèo
Thế giới luôn hiện diện trong lời cầu nguyện được tìm thấy trong sách Thánh vịnh. Ví dụ, các Thánh vịnh nói lên lời hứa cứu độ của Thiên Chúa dành cho những người yếu đuối nhất: “Chúa phán rằng: ‘Trước cảnh người nghèo bị áp bức, kẻ khốn cùng rên siết thở than, giờ đây Ta đứng dậy, ban ơn giải thoát cho kẻ mong chờ.” (12,6). Hoặc các Thánh vịnh cảnh báo về nguy hiểm của sự giàu sang thế gian bởi vì “Dù sống trong danh vọng, con người cũng không hiểu biết gì; thật nó chẳng khác chi con vật một ngày kia phải chết.” (49,21). Hoặc chúng cho thấy cái nhìn của Thiên Chúa về lịch sử: “Chúa đảo lộn chương trình muôn nước, Người phá tan ý định chư dân. Chương trình Chúa ngàn năm bền vững, ý định của lòng Người vạn kiếp trường tồn” (33, 10-11).
Không thể cầu nguyện với Thiên Chúa mà không yêu thương anh em
Tóm lại, ở đâu có Thượng đế, thì con người cũng phải ở đó. Sách Thánh phân loại: “Chúng ta yêu thương, vì Người đã yêu chúng ta trước. Nếu ai nói, ‘Tôi yêu Chúa,’ và ghét anh em mình, thì người đó là kẻ nói dối; vì ai không yêu anh em người mình nhìn thấy, thì không thể yêu Thiên Chúa là Đấng họ không nhìn thấy. Nếu bạn đọc nhiều kinh Mân Côi mỗi ngày nhưng lại nói xấu người khác, lại mang lòng giận dữ, thù ghét người khác, thì đây là giả dối, không phải là chân lý. Và chúng tôi nhận điều răn này từ Người, đó là ai yêu mến Thiên Chúa, thì cũng phải yêu thương anh em mình” (1Ga 4, 19-21).
Vô thần thực hành: Không nhận ra tha nhân là hình ảnh Thiên Chúa
Kinh Thánh nhìn nhận trường hợp một người dù thành tâm tìm kiếm Thiên Chúa, nhưng không bao giờ gặp được Người; Kinh Thánh cũng khẳng định rằng không bao giờ được chối bỏ nước mắt của người nghèo, nếu không sẽ không gặp được Thiên Chúa. Thiên Chúa không ủng hộ chủ nghĩa “vô thần” của những người phủ nhận hình ảnh Thiên Chúa đã in sâu trong mỗi con người. Thái độ vô thần đó có ở mọi thời đại: tôi tin Thiên Chúa nhưng tôi xa lánh tha nhân và tôi cho phép mình thù ghét người khác. Đây là vô thần thực hành. Không nhận ra con người là hình ảnh Thiên Chúa thì đó là một sự phạm thánh, một sự ô uế, một hành vi xúc phạm tồi tệ nhất mà người ta có thể làm đối với đền thờ và bàn thờ.
Anh chị em thân mến, những lời cầu nguyện trong Thánh Vịnh giúp chúng ta không rơi vào cơn cám dỗ của “kẻ ác”, nghĩa là sống và có lẽ cầu nguyện, như thể Thiên Chúa không hiện hữu, và như thể người nghèo không tồn tại.
Nguồn: vaticannews.va/vi
Ngày 28.10.2020
Bài 12: Chúa Giêsu, Con người cầu nguyện
Anh chị em thân mến, chào anh chị em!
Trong hành trình dạy giáo lý về cầu nguyện, sau khi du hành qua Cựu Ước, giờ đây chúng ta đến với Chúa Giêsu. Và Chúa Giêsu đã cầu nguyện. Việc khởi đầu sứ vụ công khai của ngài diễn ra với phép rửa tại sông Giodan. Các tác giả Tin Mừng đều nhất trí về tầm quan trọng cơ bản của tình tiết này. Họ thuật lại việc mọi người đã cùng nhau cầu nguyện như thế nào và xác định rằng cuộc tụ họp này mang bản chất sám hối rõ ràng (x. Mc 1:5; Mt 3:8). Dân chúng đến với Gioan để chịu phép rửa, để được tha tội: đó là tính chất sám hối, hoán cải.
Chúa Giêsu tham gia cầu nguyện với dân chúng
Do đó, hoạt động công khai đầu tiên của Chúa Giê-su là tham gia một buổi cầu nguyện chung của dân chúng, buổi cầu nguyện của những người sắp lãnh nhận phép rửa, một buổi cầu nguyện thống hối, trong đó tất cả đều nhìn nhận mình là tội nhân. Vì lý do này, thánh Gioan Tẩy giả muốn phản đối. Ngài nói: “Chính tôi mới cần được Ngài làm phép rửa, thế mà Ngài lại đến với tôi!” (Mt 3,14). Thánh nhân hiểu Chúa Giêsu là ai, nhưng Chúa Giêsu khẳng định: hành động của Người là hành động tuân theo thánh ý Chúa Cha (c. 15), một hành động liên đới với thân phận con người chúng ta.
Chúa bước xuống dòng nước như một tội nhân
Chúa cầu nguyện với những tội nhân của dân Chúa. Chúng ta nghĩ điều này: Chúa Giê-su là Đấng Công chính, không phải là người tội lỗi. Nhưng Chúa muốn đi xuống đến tận chỗ chúng ta, những người tội lỗi, và Chúa cầu nguyện với chúng ta, và khi chúng ta cầu nguyện, Chúa cầu nguyện cùng chúng ta; Chúa ở với chúng ta bởi vì Người ở trên trời cầu nguyện cho chúng ta. Chúa Giêsu luôn cầu nguyện với dân Người, luôn cầu nguyện với chúng ta: luôn luôn. Chúng ta không bao giờ cầu nguyện một mình, chúng ta luôn cầu nguyện với Chúa Giê-su. Chúa không đứng lại ở bờ sông đối diện: “Ta công chính, các ngươi tội lỗi”, để đánh dấu sự khác biệt và khoảng cách với dân bất tuân, nhưng Người đặt chân xuống cùng dòng nước thanh tẩy. Chúa hành động như một tội nhân. Và đây là sự vĩ đại của Thiên Chúa, Đấng đã sai Con của Người đến và tự hủy mình ra không mình và như một tội nhân.
Chúa Giê-su đi trước mở đường cho chúng ta
Chúa Giêsu không phải là một Thiên Chúa xa cách, và Người không thể như vậy. Việc nhập thể đã mặc khải điều đó cách hoàn toàn và theo cách con người không thể tưởng tượng. Do đó, khi bắt đầu sứ mệnh của mình, Chúa Giêsu đứng đầu một dân tộc sám hối, như thể nhận trách nhiệm mở một lỗ hổng mà qua đó, tất cả chúng ta, sau Người, phải can đảm vượt qua. Con đường, cuộc hành trình, thì khó khăn, nhưng Chúa đi trước, mở lối. Sách Giáo lý Giáo hội Công giáo giải thích rằng đây là nét mới mẻ của thời kỳ viên mãn. Giáo lý dạy: “Lời cầu của Người Con, lời kinh mà Chúa Cha hằng mong đợi nơi con cái mình, và sau cùng được chính Người Con Một duy nhất thể hiện trong nhân tính với con người và cho mọi người” (số 2599). Chúa Giêsu cầu nguyện với chúng ta. Chúng ta hãy ghi nhớ điều này trong tâm trí của chúng ta: Chúa Giêsu cầu nguyện với chúng ta.
Chúa Giê-su đến vì toàn thể nhân loại
Vào ngày hôm đó, bên bờ sông Gio-đan, có toàn thể nhân loại, với những khao khát cầu nguyện không được diễn tả thành lời. Trên hết, có những người tội lỗi: những người nghĩ rằng họ không thể được Chúa yêu thương, những người không dám đi quá ngưỡng cửa của đền thờ, những người không cầu nguyện vì họ cảm thấy không xứng đáng. Chúa Giê-su đến vì mọi người, ngay cả vì họ, và Chúa bắt đầu chính bằng cách gia nhập với họ. Người đứng hàng đầu.
Đặc biệt, Tin Mừng Luca làm nổi bật bầu khí cầu nguyện khi Chúa Giêsu chịu phép rửa: “Khi toàn dân đã chịu phép rửa, Đức Giê-su cũng chịu phép rửa, và đang khi Người cầu nguyện, thì trời mở ra” (3,21). Bằng việc cầu nguyện, Chúa Giêsu mở cửa thiên đàng, và Chúa Thánh Thần hiện xuống từ chỗ được mở đó. Và từ trên cao, một tiếng nói công bố sự thật kinh ngạc: “Con là Con của Cha; ngày hôm nay, Cha hài lòng về Con” (c. 22). Cụm từ đơn giản này chứa đựng một kho tàng vô cùng lớn lao: nó khiến chúng ta cảm nhận được điều gì đó về sứ vụ của Chúa Giê-su và trái tim của Chúa luôn hướng về Chúa Cha. Trong cơn lốc của cuộc đời và thế gian, điều sẽ đến để kết án Người, ngay cả trong những kinh nghiệm khó khăn và đau buồn nhất mà Người sẽ phải chịu đựng, ngay cả khi Người cảm thấy mình không còn chỗ nào để tựa đầu (x. Mt 8,20), ngay cả khi hận thù và bách hại tung hoành quanh Người, Chúa Giê-su không bao giờ không có nơi nương tựa trú ẩn: Chúa cư ngụ đời đời trong Chúa Cha.
Đây là sự cao cả độc đáo của lời cầu nguyện của Chúa Giêsu: Chúa Thánh Thần chiếm hữu con người của Chúa và tiếng nói của Chúa Cha chứng thực rằng Chúa là Đấng yêu dấu, Người Con phản ánh trọn vẹn Chúa Cha.
Nhờ phép rửa tội, chúng ta được chia sẻ lời cầu nguyện của Chúa Giê-su
Lời cầu nguyện này của Chúa Giê-su, ở bên bờ sông Gio-đan, hoàn toàn mang tính cá nhân – và sẽ kéo dài suốt cuộc đời trần thế của Chúa -, vào Lễ Ngũ Tuần, sẽ trở thành ân sủng của cầu nguyện cho tất cả những ai được rửa tội trong Chúa Ki-tô. Chính Chúa đã nhận lấy món quà này cho chúng ta, và mời gọi chúng ta cầu nguyện như Chúa đã cầu nguyện.
Kiên trì cầu nguyện cả trong những lúc tối tăm của cuộc sống
Do đó, nếu trong một buổi tối cầu nguyện, chúng ta cảm thấy yếu đuối và trống rỗng, cuộc sống đối với chúng ta dường như hoàn toàn vô ích, thì ngay lúc đó chúng ta phải cầu xin để lời cầu nguyện của Chúa Giê-su cũng trở thành của chúng ta. “Hôm nay con không thể cầu nguyện, con không biết phải làm gì: Con cảm thấy không thích, con không xứng đáng …”. Và hãy phó thác để Chúa cầu nguyện cho chúng ta. Trong giờ phút này, Chúa đang ở trước Chúa Cha cầu nguyện cho chúng ta; Chúa là Đấng chuyển cầu, bày tỏ cho Chúa Cha nhìn thấy những vết thương vì chúng ta. Chúng ta có niềm tin mạnh mẽ vào điều này.
Ngay cả khi mọi người từ chối, chúng ta vẫn là con yêu dấu của Chúa Cha
Nếu chúng ta có niềm tin, thì chúng ta sẽ nghe thấy một giọng nói từ thiên đàng, mạnh mẽ hơn tiếng nói từ khu ổ chuột của chính chúng ta, và chúng ta sẽ nghe thấy giọng nói này thì thầm những lời dịu dàng: “Con là người yêu dấu của Chúa, con là con, con là niềm vui của Cha trên trời”. Lời của Chúa Cha vang vọng cho chúng ta, cho mỗi người chúng ta: ngay cả khi chúng ta bị tất cả từ chối. Chúa Giê-su không xuống nước sông Gio-đan vì chính Người, nhưng vì tất cả chúng ta. Chúa đã mở các tầng trời, như ông Mô-sê đã phân chia nước Biển Đỏ, để tất cả chúng ta có thể theo Chúa, đi qua đó. Chúa Giê-su đã ban cho chúng ta lời cầu nguyện của chính Chúa, đó là cuộc đối thoại tình yêu của Chúa với Chúa Cha. Chúa ban cho chúng ta như một hạt giống của Chúa Ba Ngôi, Đấng muốn bén rễ trong tâm hồn chúng ta. Chúng ta hãy đón nhận món quà này, món quà của sự cầu nguyện. Khi luôn ở bên Chúa, chúng ta sẽ không sai lầm.
Nguồn: vaticannews.va/vi
Ngày 04.11.2020
Bài 13: Chúa Giêsu, Thầy dạy cầu nguyện
Anh chị em thân mến, chào anh chị em!
Trong suốt cuộc đời công khai, Chúa Giêsu không ngừng đến với sức mạnh của lời cầu nguyện. Các sách Phúc âm cho chúng ta thấy điều này khi Người đi tới những nơi vắng vẻ để cầu nguyện. Đây là những quan sát chín chắn và kín đáo, giúp chúng ta hình dung được những cuộc đối thoại cầu nguyện đó. Tuy nhiên, chúng làm chứng rõ ràng rằng, ngay cả trong những lúc chăm sóc nhiều hơn cho người nghèo và người bệnh, Chúa Giêsu không bao giờ bỏ qua cuộc đối thoại thân mật của Người với Chúa Cha. Càng hòa mình vào nhu cầu của con người, Chúa càng cảm thấy cần được nghỉ ngơi trong sự Hiệp thông Ba Ngôi, để trở về với Chúa Cha và Thần Khí.
Cầu nguyện là bánh lái dẫn đường cho Chúa Giêsu
Do đó, trong cuộc đời của Chúa Giêsu có một bí mật mà đôi mắt con người, điểm tựa của mọi thứ, không thể thấy được. Việc cầu nguyện của Chúa Giêsu là một thực tại huyền bí, trong đó chúng ta chỉ cảm nhận được một điều gì đó, nhưng cho phép chúng ta đọc toàn bộ sứ mạng của Người từ một quan điểm đúng đắn. Trong những giờ đơn độc ấy – trước khi bình minh xuất hiện hay trong đêm tối – Chúa Giêsu đắm mình trong tình thân mật với Chúa Cha, nghĩa là trong Tình yêu mà mọi linh hồn đều khao khát. Đây là những gì nổi lên từ những ngày đầu tiên trong sứ vụ công khai của Người.
Ví dụ, vào một ngày thứ Bảy, thị trấn Ca-phác-na-um bị biến thành một “bệnh viện dã chiến”: sau khi mặt trời lặn, họ mang tất cả những người bệnh đến với Chúa Giêsu, và Người chữa lành họ. Tuy nhiên, trước bình minh, Chúa Giêsu biến mất: Người lui vào một nơi vắng vẻ và cầu nguyện. Ông Simon và những người khác tìm kiếm Chúa và khi họ tìm thấy Người, họ nói: “Mọi người đang tìm kiếm Thầy!”. Chúa Giêsu trả lời thế nào?: “Tôi phải đi rao giảng trong các làng khác; vì điều này, tôi đã đến thế gian”(x. Mc 1,35-38). Chúa Giêsu luôn đi xa hơn một chút, xa hơn nữa trong lời cầu nguyện với Chúa Cha, và xa hơn nữa, đến những ngôi làng khác, những chân trời khác, để đi rao giảng, những dân tộc khác.
Cầu nguyện là bánh lái dẫn đường cho Chúa Giêsu. Không phải là những thành công, không phải là sự đồng thuận, không phải là câu nói đầy hấp dẫn: “tất cả mọi người đang tìm Thầy”. Lần theo con đường của Chúa Giêsu ta thấy đó là con đường ít thoải mái, nhưng vâng theo sự soi dẫn của Chúa Cha, Đấng mà Chúa Giêsu lắng nghe và đón nhận trong lời cầu nguyện trong thanh vắng của Người.
4 đặc điểm của việc cầu nguyện Ki-tô giáo
Sách Giáo lý nói rằng: “Khi Chúa Giêsu cầu nguyện, thì Người đã dạy chúng ta cầu nguyện” (số 2607). Vì vậy, từ gương mẫu của Chúa Giêsu, chúng ta có thể rút ra một số đặc điểm của việc cầu nguyện Ki-tô giáo.
Cầu nguyện trên hết là lắng nghe và gặp gỡ Thiên Chúa
Trước hết, nó có một tính ưu việt: cầu nguyện là mong muốn đầu tiên trong ngày, điều được thực hiện vào lúc bình minh, trước khi thế giới thức giấc. Nó đưa linh hồn trở về với điều mà nếu thiếu nó thì linh hồn không sống được. Một ngày sống mà không cầu nguyện có nguy cơ trở thành một trải nghiệm khó chịu hoặc buồn tẻ: mọi thứ xảy ra đều có thể trở thành một định mệnh áp đặt và mù quáng đối với chúng ta.
Thay vào đó, Chúa Giêsu dạy tuân theo thực tế và do đó, lắng nghe. Cầu nguyện trên hết là lắng nghe và gặp gỡ Thiên Chúa. Vì vậy, những vấn đề hàng ngày không trở thành chướng ngại vật, nhưng chính là lời Thiên Chúa kêu gọi chúng ta lắng nghe và gặp gỡ những người đang ở trước mặt chúng ta. Vì thế, những thử thách trong cuộc sống trở thành cơ hội để tăng trưởng trong đức tin và đức ái. Cuộc hành trình hàng ngày, bao gồm cả những nỗ lực, có chiều kích của một “ơn gọi”. Cầu nguyện có sức mạnh biến đổi thành tốt lành điều mà trong cuộc sống, nếu không có cầu nguyện thì sẽ là một lời kết án; lời cầu nguyện có khả năng mở ra một chân trời rộng lớn cho tâm trí và mở rộng trái tim.
Cầu nguyện là một nghệ thuật cần được thực hành với sự kiên trì
Thứ hai, cầu nguyện là một nghệ thuật cần được thực hành với sự kiên trì. Chính Chúa Giêsu nói với chúng ta: hãy gõ, gõ, gõ. Tất cả chúng ta đều có khả năng cầu nguyện trong những biến cố, phát sinh từ cảm xúc của một khoảnh khắc; nhưng Chúa Giêsu dạy chúng ta một kiểu cầu nguyện khác: cách cầu nguyện có kỷ luật, tập luyện và là quy luật của cuộc sống. Sự cầu nguyện bền bỉ tạo ra sự biến đổi ngày càng tiến bộ, làm cho chúng ta mạnh mẽ trong lúc hoạn nạn, ban cho chúng ta ơn được nâng đỡ bởi Đấng luôn yêu thương và bảo vệ chúng ta.
Thanh vắng tĩnh mịch cần cho việc cầu nguyện
Một đặc điểm khác của lời cầu nguyện của Chúa Giêsu là sự thanh vắng tĩnh mịch. Những người cầu nguyện không trốn tránh thế gian, nhưng thích những nơi vắng vẻ. Ở đó, trong sự thinh lặng, nhiều tiếng nói mà chúng ta giấu kín trong lòng có thể nổi lên: những ước muốn bị kìm nén nhất, những sự thật mà chúng ta vẫn cố kìm nén, v.v. Và trên hết, Thiên Chúa nói trong thinh lặng. Mỗi người cần có một khoảng không gian riêng, nơi có thể trau dồi đời sống nội tâm của chính mình, nơi các hành động tìm lại được ý nghĩa. Không có đời sống nội tâm, chúng ta trở nên hời hợt, kích động, lo lắng – lo lắng làm chúng ta đau đớn biết bao! Vì điều này, chúng ta phải cầu nguyện; không có cuộc sống nội tâm, chúng ta trốn tránh thực tại, và chúng ta cũng trốn tránh chính mình. Chúng ta là những người luôn chạy trốn.
Nhận thức rằng mọi sự đến từ Thiên Chúa
Cuối cùng, lời cầu nguyện của Chúa Giêsu là nơi mà chúng ta nhận thức rằng mọi sự đều đến từ Thiên Chúa và trở về với Người. Đôi khi con người chúng ta tin rằng chúng ta là ông chủ của mọi thứ, hoặc ngược lại chúng ta đánh mất tất cả lòng tự trọng của bản thân. Cầu nguyện giúp chúng ta tìm ra chiều kích thích hợp trong mối tương quan với Thiên Chúa, Cha của chúng ta, và với mọi tạo vật. Và cuối cùng, lời cầu nguyện của Chúa Giêsu là phó mình trong tay Chúa Cha, như Chúa Giêsu trong vườn ô liu, trong nỗi thống khổ đó: “Lạy Cha nếu có thể được… nhưng xin cho ý Cha được thực hiện”. Thật đẹp khi chúng ta đang bị xao động, lo lắng một chút, và Chúa Thánh Thần biến đổi nội tâm chúng ta và hướng dẫn chúng ta đi đến phó thác trong tay Chúa Cha: “Lạy Cha, xin cho ý Cha được thực hiện”.
Anh chị em thân mến, chúng ta hãy khám phá lại, trong Tin Mừng, Chúa Giêsu Ki-tô là người dạy cầu nguyện, và chúng ta hãy học ở trường của Người. Tôi đảm bảo với anh chị em rằng chúng ta sẽ tìm thấy niềm vui và sự bình an.
Nguồn: vaticannews.va/vi
Ngày 11.11.2020
Bài 14: Cầu nguyện kiên trì
Anh chị em thân mến, chào anh chị em!
Chúng ta tiếp tục các bài giáo lý về cầu nguyện. Có người nói với tôi: “Cha nói quá nhiều về việc cầu nguyện. Nó không cần thiết”. Nhưng không, nó cần thiết. Vì nếu không cầu nguyện, chúng ta sẽ không có nghị lực để tiến bước trong cuộc sống. Lời cầu nguyện giống như oxy của cuộc sống. Lời cầu nguyện mang lại cho chúng ta sự hiện diện của Chúa Thánh Thần, Đấng luôn dẫn dắt chúng ta tiến về phía trước. Vì lý do này, tôi nói rất nhiều về việc cầu nguyện.
Chúa Giêsu đã nêu gương cầu nguyện không ngừng, được thực hành với sự kiên trì. Đối thoại liên tục với Chúa Cha, trong thinh lặng và suy tư, là điểm tựa của toàn bộ sứ mạng của Người. Các sách Tin Mừng cũng thuật lại với chúng ta những lời Chúa khuyên nhủ các môn đệ, để các ông cầu nguyện một cách kiên trì, không mệt mỏi.
Kiên trì
Sách Giáo lý nhắc lại ba dụ ngôn trong Phúc âm thánh Luca, nhấn mạnh đặc điểm này của việc cầu nguyện (x. GLCG, 2613).
Trước hết, cầu nguyện phải kiên trì, giống như nhân vật trong dụ ngôn thứ nhất, phải đón một vị khách đến bất ngờ, nửa đêm đến gõ cửa một người bạn và xin bánh. Người bạn trả lời “không!”, vì anh đã lên giường rồi, nhưng người bạn nài nỉ và nài nỉ mãi cho đến khi anh buộc phải thức dậy và cho người bạn bánh (x. Lc 11,5-8). Nhưng Thiên Chúa kiên nhẫn hơn chúng ta, và những ai tin tưởng và kiên trì gõ cửa trái tim của Người sẽ không bị thất vọng. Chúa Cha của chúng ta biết rõ chúng ta cần gì; sự kiên trì không phải để báo với Người hoặc thuyết phục Người, nhưng nó nuôi dưỡng mong muốn và kỳ vọng trong chúng ta.
Kiên định
Dụ ngôn thứ hai nói về người đàn bà góa tìm đến với quan tòa để ông giúp bà có được công lý. Vị thẩm phán này tham nhũng, là một người bất lương, nhưng cuối cùng, bị quấy rầy bởi sự kiên định, can đảm của bà góa, ông quyết định chiều lòng bà (x. Lc 18,1-8). Dụ ngôn này giúp chúng ta hiểu rằng đức tin không phải là động lực trong chốc lát, mà là sự can đảm cầu khẩn Thiên Chúa, thậm chí “tranh luận” với Người, không chịu đầu hàng trước sự dữ và bất công.
Khiêm tốn
Dụ ngôn thứ ba kể về một người Pharisêu và một người thu thuế đến Đền thờ để cầu nguyện. Người đầu tiên hướng về Thiên Chúa và khoe khoang công trạng của mình; còn người kia cảm thấy không xứng đáng ngay cả khi bước vào đền thờ. Tuy nhiên, Thiên Chúa không lắng nghe lời cầu nguyện của người thứ nhất, nghĩa là của người kiêu ngạo, trong khi Người đáp lại lời của người khiêm tốn (x. Lc 18, 9-14). Lời cầu nguyện sẽ không chân thật nếu không có tinh thần khiêm tốn. Chính sự khiêm nhường khiến chúng ta cầu xin, cầu nguyện.
Phải luôn cầu nguyện
Giáo huấn của Phúc Âm rất rõ ràng: chúng ta phải luôn cầu nguyện, ngay cả khi mọi sự dường như vô ích, khi Thiên Chúa dường như im lặng, không nghe, và chúng ta dường như lãng phí thời gian. Ngay cả khi bầu trời tối sầm, Ki-tô hữu vẫn không ngừng cầu nguyện. Lời cầu nguyện của Ki-tô hữu đi đôi với đức tin. Và niềm tin, trong rất nhiều ngày của cuộc đời chúng ta, có thể giống như là một ảo tưởng, một nỗ lực không kết quả: có những khoảnh khắc tăm tối trong cuộc đời chúng ta. Và ở đó, đức tin như là một ảo tưởng. Nhưng thực hành cầu nguyện cũng có nghĩa là chấp nhận nỗ lực này.
Có người nói: “Thưa cha, con đi cầu nguyện mà con không có cảm giác gì… Con cảm thấy như thế này, trái tim khô cằn, trái tim khô héo, con không biết…”. Nhưng chúng ta phải tiếp tục, với sự mệt mỏi của những khoảnh khắc tồi tệ, những khoảnh khắc mà chúng ta không cảm thấy gì. Nhiều vị thánh nam nữ đã trải qua đêm tối của đức tin và sự im lặng của Thiên Chúa – khi chúng ta gõ, gõ và Chúa không trả lời – và những vị thánh này đã kiên trì.
Chúng ta không bao giờ đơn độc khi cầu nguyện
Trong những đêm tối đức tin này, người cầu nguyện không bao giờ đơn độc. Thực tế, Chúa Giê-su không chỉ là nhân chứng và thầy dạy cầu nguyện, nhưng còn hơn thế nữa. Người đón nhận chúng ta trong lời cầu nguyện của Người, để chúng ta có thể cầu nguyện trong Người và qua Người. Và đây là công việc của Chúa Thánh Thần. Chính vì lý do đó Tin Mừng mời gọi chúng ta nhân danh Chúa Giêsu cầu nguyện với Chúa Cha. Thánh Gioan thuật lại những lời Chúa dạy: “Bất cứ ai cầu xin nhân danh Thầy, Thầy sẽ làm, để Chúa Cha được tôn vinh nơi Chúa Con” (14,13) . Và Sách Giáo Lý giải thích rằng “sự tin tưởng chắc chắn rằng những lời khẩn cầu của chúng ta được Chúa nghe thấy dựa trên lời cầu nguyện của Chúa Giê-su” (Số 2614). Nó mang lại đôi cánh mà lời cầu nguyện của con người luôn muốn có được.
Chúa Giê-su nhận lấy mọi lời cầu nguyện của chúng ta
Làm sao chúng ta có thể không nhớ lại ở đây những lời của Thánh Vịnh 91, đầy tin tưởng, phát xuất từ một trái tim hy vọng hoàn toàn vào Thiên Chúa: “Chúa phù trì che chở, dưới cánh Người, bạn có chỗ ẩn thân: lòng Chúa tín trung là khiên che thuẫn đỡ. Bạn không sợ cảnh hãi hùng đêm vắng hay mũi tên bay giữa ban ngày, cả dịch khí hoành hành trong đêm tối, cả ôn thần sát hại lúc ban trưa” (cc. 4-6).
Lời cầu nguyện tuyệt vời này được hoàn thành nơi chính Chúa Ki-tô; chính trong Người mà nó hoàn toàn trở thành sự thật. Nếu không có Chúa Giê-su, những lời cầu nguyện của chúng ta có nguy cơ bị thu hẹp thành nỗ lực của con người, hầu hết đều có kết cục thất bại. Nhưng Chúa đã tự mang lấy trên mình mọi tiếng kêu than, mọi tiếng rên rỉ, mọi hân hoan, mọi khẩn cầu… mọi lời cầu nguyện của con người.
Chúa Thánh Thần dẫn chúng ta đến gặp Chúa Cha và Chúa Con
Và chúng ta đừng quên Chúa Thánh Thần cầu nguyện trong chúng ta. Chính Ngài dẫn chúng ta đến cầu nguyện, dẫn chúng ta đến với Chúa Giêsu: đó là Quà tặng. Đó là món quà mà Chúa Cha và Chúa Con đã ban cho chúng ta để tiến tới cuộc gặp gỡ Thiên Chúa. Và Chúa Thánh Thần, khi chúng ta cầu nguyện, là Chúa Thánh Thần cầu nguyện trong lòng chúng ta.
Ki-tô hữu không sợ hãi khi cầu nguyện
Chúa Ki-tô là tất cả đối với chúng ta, ngay cả trong đời sống cầu nguyện của chúng ta, Thánh Augustinô đã nói về điều này bằng một cách diễn đạt soi sáng mà chúng ta cũng tìm thấy trong Sách Giáo Lý: Chúa Giêsu “cầu nguyện cho chúng ta với tư cách là tư tế của chúng ta; Người cầu nguyện trong chúng ta với tư cách là Thủ lãnh của chúng ta; Người được chúng ta kêu cầu với tư cách là Thiên Chúa. Vậy chúng ta phải nhận biết tiếng của chúng ta trong Người, và tiếng của Người ở trong chúng ta” (Số 2616). Đó là lý do mà người Kitô hữu khi cầu nguyện không sợ hãi điều gì. Chúng ta phó thác chính mình cho Chúa Thánh Thần, Đấng đã được ban cho chúng ta như một món quà, Đấng cầu nguyện trong chúng ta và dẫn chúng ta đến sự cầu nguyện. Xin chính Chúa Thánh Thần, Thầy dạy cầu nguyện, dạy chúng ta cách cầu nguyện.
Nguồn: vaticannews.va/vi
Ngày 18.11.2020
Bài 15: Đức Maria, người nữ cầu nguyện
Anh chị em thân mến, chào anh chị em!
Trong loạt bài giáo lý về cầu nguyện, hôm nay chúng ta gặp Đức Trinh Nữ Maria, một phụ nữ cầu nguyện. Đức Mẹ đã cầu nguyện khi thế giới vẫn chưa biết về Mẹ, khi Mẹ còn là một thiếu nữ đơn sơ hứa hôn với một người thuộc dòng dõi Đa-vít. Chúng ta có thể tưởng tượng người thiếu nữ Nazareth chìm trong thinh lặng, tiếp tục trò chuyện với Chúa, Đấng không lâu sau đó ủy thác cho Mẹ một sứ vụ. Mẹ đầy ân sủng và vô nhiễm từ khi thụ thai, nhưng Mẹ vẫn không biết gì về ơn gọi kỳ lạ và phi thường của mình và về vùng biển bão tố mà Mẹ sẽ phải vượt qua. Có một điều chắc chắn: Mẹ Maria thuộc về đoàn người đông đảo của những người có lòng khiêm tốn mà các sử gia chính thống không ghi trong sách của họ, nhưng với họ, Thiên Chúa đã chuẩn bị cho sự xuất hiện của Con của Người.
Mẹ Maria để Chúa dẫn dắt cuộc đời mình
Mẹ Maria đã không tự dẫn dắt cuộc đời của mình: Mẹ chờ đợi Thiên Chúa cầm cương trên con đường của Mẹ và hướng dẫn Mẹ đến nơi mà Người muốn. Mẹ ngoan ngoãn, và với sự sẵn sàng, Mẹ chuẩn bị cho những sự kiện lớn mà Thiên Chúa thực hiện trên thế giới. Sách Giáo lý nhắc lại sự hiện diện thường xuyên và quan tâm của Mẹ trong chương trình nhân từ của Chúa Cha trong suốt cuộc đời của Chúa Giê-su (x. GLCG, 2617-2618).
Thái độ cởi mở với thánh ý Chúa
Khi Mẹ Maria đang cầu nguyện thì Tổng lãnh Thiên thần Gabriel mang sứ điệp của ngài đến cho Mẹ ở Nazareth. Lời thưa “Này tôi đây” nhỏ bé nhưng vô biên của Mẹ, khiến tất cả tạo vật nhảy lên vì vui sướng vào thời điểm đó, trong suốt lịch sử cứu độ, nó đã được thưa trước đó bởi nhiều câu “Này tôi đây” khác, bởi nhiều người vâng lời tín thác, bởi nhiều người đã mở lòng đón nhận ý Chúa.
Không có cách cầu nguyện nào tốt hơn là như Mẹ Maria, có thái độ cởi mở, tâm hồn cởi mở với Thiên Chúa: “Lạy Chúa, Chúa muốn gì, khi nào Chúa muốn và Chúa muốn như thế nào”. Tâm hồn đón nhận thánh ý Chúa và Chúa luôn đáp lời. Có bao nhiêu tín hữu sống lời cầu nguyện của họ như thế này! Những người có tâm hồn khiêm tốn nhất cầu nguyện như thế này: “Lạy Chúa, Chúa muốn gì, khi nào Chúa muốn và Chúa muốn như thế nào”. Họ không nổi giận khi ngày đời của họ đầy rẫy những vấn đề, nhưng họ tiếp tục đối mặt với thực tế và biết rằng trong tình yêu thương khiêm nhường của mình trong mỗi hoàn cảnh, chúng ta trở thành công cụ ân sủng của Thiên Chúa. “Lạy Chúa, Chúa muốn gì, khi nào Chúa muốn và Chúa muốn như thế nào”. Một lời cầu nguyện đơn giản nhưng đặt cuộc đời chúng ta trong bàn tay của Chúa: xin Người hướng dẫn chúng ta. Tất cả chúng ta có thể cầu nguyện như thế.
Việc cầu nguyện biết cách làm dịu sự bất an
Cầu nguyện biết cách làm dịu sự bất an: nhưng, chúng ta bồn chồn bất an, chúng ta luôn muốn những điều trước khi cầu xin và muốn ngay lập tức. Sự bất an này làm chúng ta đau đớn, và cầu nguyện biết cách làm dịu sự bồn chồn, nó biết cách biến sự bất an thành sự sẵn sàng. Khi tôi bồn chồn, tôi cầu nguyện và lời cầu nguyện mở rộng trái tim tôi và khiến tôi sẵn sàng theo ý muốn của Chúa. Trong những khoảnh khắc ngắn ngủi của sự kiện Truyền Tin, Đức Trinh Nữ Maria, đã biết cách đẩy lùi nỗi sợ hãi, mặc dù Mẹ đã đoán trước rằng lời “xin vâng” của Mẹ sẽ mang đến cho Mẹ những thử thách rất khó khăn.
Xin Chúa hiện diện trên mỗi bước đường của chúng ta
Nếu khi cầu nguyện chúng ta hiểu rằng mỗi ngày Chúa ban là một lời mời gọi, thì chúng ta hãy mở rộng lòng mình và đón nhận mọi sự. Chúng ta hãy học cách thưa: “Lạy Chúa, Chúa muốn gì. Chỉ cần hứa với con rằng Chúa sẽ hiện diện trên mọi bước đường của con.” Đây là điều quan trọng: cầu xin Chúa hiện diện trên mỗi bước của cuộc hành trình của chúng ta: xin Người không để chúng ta đơn độc, xin Người không bỏ rơi chúng ta trong cám dỗ, xin Người không bỏ rơi chúng ta trong những thời điểm tồi tệ. Lời kết của kinh Lạy Cha là như thế này: là ơn sủng mà chính Chúa Giê-su đã dạy chúng ta cầu xin Chúa.
Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa và Mẹ Giáo hội
Mẹ Maria đồng hành trong toàn bộ cuộc đời của Chúa Giêsu bằng lời cầu nguyện, cho đến khi Người chết và phục sinh; và cuối cùng, Mẹ vẫn tiếp tục, và đồng hành với những bước đầu tiên của Giáo hội sơ khai (x. Cv 1,14). Mẹ Maria cầu nguyện với các môn đệ, những người đã trải qua cuộc khủng hoảng Chúa chịu đóng đinh. Mẹ cầu nguyện với thánh Phê-rô, người bị khuất phục trước sự sợ hãi và khóc lóc vì hối hận. Mẹ Maria ở đó, cùng với các môn đệ, ở giữa những người nam nữ mà Con của Mẹ đã kêu gọi để thành lập Cộng đoàn của Người. Mẹ không là một linh mục ở giữa họ. Chính Mẹ của Chúa Giêsu cầu nguyện với họ, trong cộng đoàn, với tư cách là một người trong cộng đoàn. Mẹ cầu nguyện với họ và cầu nguyện cho họ.
Và, một lần nữa, lời cầu nguyện của Mẹ báo trước tương lai sắp được hoàn thành: nhờ hoạt động của Chúa Thánh Thần, Mẹ đã trở thành Mẹ Thiên Chúa, và nhờ hoạt động của Chúa Thánh Thần, Mẹ đã trở thành Mẹ của Giáo hội. Khi cầu nguyện với Giáo hội sơ khai Mẹ trở thành Mẹ của Giáo hội, đồng hành với các môn đệ trong những bước đầu tiên của Giáo hội bằng cầu nguyện và chờ đợi Chúa Thánh Thần. Trong thinh lặng, luôn luôn trong thinh lặng. Lời cầu nguyện của Mẹ Maria thầm lặng.
Chờ đợi Chúa Thánh Thần trong cầu nguyện
Tin Mừng thuật lại cho chúng ta chỉ một lời cầu nguyện của Mẹ Maria: tại Cana, khi Mẹ cầu xin Con Mẹ, cho đám người đang gặp vấn đề, vì tiệc cưới không có rượu! Và Mẹ cầu nguyện và yêu cầu Con Mẹ giải quyết vấn đề đó. Sự hiện diện của Mẹ Maria tự nó chính là lời cầu nguyện, và sự hiện diện của Mẹ giữa các môn đệ trong Nhà Tiệc Ly, chờ đợi Chúa Thánh Thần, trong cầu nguyện. Sách Giáo lý giải thích: “Trong đức tin của người tôi tớ khiêm nhường của Chúa, Quà tặng của Thiên Chúa – nghĩa là Chúa Thánh Thần – tìm thấy sự chào đón mà Mẹ đã mong đợi từ thuở ban đầu” (GLCG 2617)
Mẹ Maria là môn đệ đầu tiên của Chúa
Nơi Đức Trinh Nữ Maria, trực giác tự nhiên của phụ nữ được nâng cao nhờ sự kết hợp vô cùng độc đáo của Mẹ với Thiên Chúa trong lời cầu nguyện. Vì lý do này, khi đọc Tin Mừng, chúng ta nhận thấy rằng đôi khi Mẹ dường như biến mất, để rồi xuất hiện lại trong những thời điểm quan trọng: Mẹ Maria mở lòng đón nhận tiếng Thiên Chúa, Đấng hướng dẫn lòng mình, và là Đấng đã hướng dẫn những bước đi của Mẹ khi cần đến sự hiện diện của Mẹ. Sự hiện diện thinh lặng của người mẹ và của một nữ môn đệ. Mẹ Maria hiện diện vì Mẹ là Mẹ, nhưng Mẹ cũng hiện diện vì Mẹ là môn đệ đầu tiên, là người đã học những điều của Chúa Giêsu tốt nhất. Mẹ Maria không bao giờ nói: “Hãy đến, Mẹ sẽ giải quyết mọi việc”. Nhưng Mẹ nói: “Hãy làm những gì Người nói với con”, luôn luôn chỉ về phía Chúa Giêsu. Đây là thái độ đặc trưng của người môn đệ và Mẹ là người môn đệ đầu tiên: cầu nguyện như người mẹ và như môn đệ.
“Đức Maria đã ghi nhớ tất cả những điều ấy và suy gẫm trong lòng” (Lc 2,19). Như vậy Thánh sử Luca đã miêu tả Mẹ của Chúa trong Tin Mừng thời thơ ấu. Tất cả những gì xảy ra xung quanh Mẹ đều được suy tư trong sâu thẳm tâm hồn Mẹ: những ngày đầy niềm vui, cũng như những khoảnh khắc đen tối nhất, khi Mẹ cố gắng để hiểu được con đường Cứu Độ Mẹ phải đi qua. Mọi thứ kết thúc trong tâm hồn Mẹ, để chúng được chuyển qua tấm màn của cầu nguyện và được cầu nguyện biến đổi. Cho dù đó là quà tặng của các đạo sĩ, hay cuộc chạy trốn sang Ai Cập, cho đến ngày thứ Sáu kinh hoàng của cuộc khổ nạn: Mẹ ghi nhớ tất cả và mang theo trong cuộc đối thoại của mình với Thiên Chúa.
Trái tim Mẹ Maria: Viên ngọc tuyệt vời không thể so sánh
Ai đó đã so sánh trái tim của Mẹ Maria với viên ngọc tuyệt vời không thể so sánh, được tạo nên và mài dũa bởi sự kiên nhẫn đón nhận thánh ý Thiên Chúa qua các mầu nhiệm của Chúa Giêsu được suy niệm trong lời cầu nguyện. Thật tuyệt biết bao nếu chúng ta cũng có thể giống Mẹ của chúng ta một chút.
Nguồn: vaticannews.va/vi
Ngày 25.11.2020
Bài 16: Lời cầu nguyện của Giáo hội sơ khai
Anh chị em thân mến,
Những bước đầu tiên của Giáo hội trên thế giới được đánh dấu bằng việc cầu nguyện. Các tác phẩm của các tông đồ và tường thuật tuyệt vời của sách Công vụ Tông đồ cho chúng ta thấy lại hình ảnh của một Giáo hội lên đường, năng nổ hoạt động, nhưng lại đặt nền tảng và động lực cho hoạt động truyền giáo trong các buổi quy tụ cầu nguyện. Hình ảnh cộng đoàn Giê-ru-sa-lem tiên khởi là điểm tham chiếu cho mọi kinh nghiệm Ki-tô giáo khác. Thánh Luca viết trong Sách Công vụ: “Các tín hữu chuyên cần nghe các Tông Đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện không ngừng.” (2,42). Cộng đoàn chuyên cần cầu nguyện.
Lắng nghe lời Chúa, hiệp thông huynh đệ, Thánh Thể và cầu nguyện: Bốn yếu tố thiết yếu của đời sống Giáo hội
Chúng ta tìm thấy ở đây bốn đặc điểm thiết yếu của đời sống Giáo hội: lắng nghe giáo huấn của các Tông đồ, duy trì sự hiệp thông với nhau, bẻ bánh và cầu nguyện.
Các Ki-tô hữu tiên khởi nhắc nhở chúng ta rằng sự tồn tại của Giáo hội có ý nghĩa nếu nó duy trì sự kết hợp vững chắc với Chúa Kitô, nghĩa là trong cộng đoàn, trong Lời Chúa, trong Thánh Thể và trong cầu nguyện, là những cách thức để chúng ta kết hiệp với Chúa Ki-tô. Việc rao giảng và dạy giáo lý làm chứng cho lời nói và cử chỉ của vị Tôn sư; việc liên tục tìm kiếm sự hiệp thông huynh đệ giúp tránh khỏi tính ích kỷ và chủ nghĩa cá biệt; việc bẻ bánh cử hành bí tích Chúa Giêsu hiện diện ở giữa chúng ta: Người sẽ không bao giờ vắng mặt, chính Người trong Thánh Thể. Người sống và bước đi với chúng ta. Và cuối cùng, cầu nguyện là không gian để đối thoại với Chúa Cha, nhờ Chúa Kitô trong Chúa Thánh Thần.
Thiếu rao giảng, hiệp thông huynh đệ, Thánh Thể và cầu nguyện thì sẽ thiếu nền tảng
Tất cả những điều phát triển trong Giáo hội nhưng không theo các yếu tố điều phối này đều thiếu nền tảng. Thiên Chúa thành lập Giáo hội chứ không phải sự ồn ào của các công việc. Bốn yếu tố điều phối – rao giảng, tìm kiếm tình hiệp thông huynh đệ, Thánh Thể và cầu nguyện, chính là tiêu chuẩn để phân định một sự việc. Bất cứ trường hợp nào thiếu những yếu tố này điều thiếu tính Giáo hội, không phải của Giáo hội. Giáo hội không phải là cái chợ, không phải là một nhóm doanh nhân phát triển với công ty mới này. Giáo hội là công trình của Chúa Thánh Thần, Đấng mà Chúa Giêsu đã gửi đến để quy tụ chúng ta. Giáo hội là hoạt động của Chúa Thánh Thần trong cộng đoàn Kitô hữu, trong đời sống cộng đoàn, trong Thánh Thể, trong cầu nguyện. Những cộng đoàn phát triển không theo các yếu tố điều phối này đều thiếu nền tảng. Nó giống như nhà xây trên cát vậy (x. Mt 7:24-27). Chính Thiên Chúa tạo nên Giáo Hội chứ không phải tiếng ồn ào của việc làm. Chính lời của Chúa Giêsu làm cho những nỗ lực của chúng ta tràn đầy ý nghĩa. Chính trong sự khiêm tốn mà chúng ta xây dựng tương lai của thế giới.
Giáo hội không được tạo thành bởi các cuộc hội họp
Nhiều lúc tôi cảm thấy buồn vô cùng khi thấy một vài cộng đoàn, có ý định tốt, nhưng lại đi sai đường khi nghĩ rằng Giáo hội được hình thành bởi các cuộc tụ họp, giống như một đảng phái chính trị. Ở đó người ta lo nghĩ về điều này, điều kia… Nhưng Chúa Thánh Thần có ở đó không? Có cầu nguyện, có tình yêu cộng đoàn, có Thánh Thể không? Nếu thiếu bốn yếu tố điều phối này thì Giáo hội trở thành một hiệp hội của con người, một đảng phái chính trị – với đa số, thiểu số – người ta thực hiện những thay đổi như thể đó là một công ty, vì số đông hay thiểu số. Và đây là lý do tại sao Giáo hội không thể phát triển bằng những điều này: Giáo hội không phát triển nhờ việc chiêu dụ, như bất kỳ tổ chức nào khác, Giáo hội phát triển nhờ sự thu hút. Và ai là người khơi dậy sự hấp dẫn? Chúa Thánh Thần. Chúng ta đừng bao giờ quên những lời của Đức Bênêđíctô XVI: “Giáo hội không phát triển nhờ việc chiêu dụ, nhưng phát triển nhờ sự thu hút”. Nếu thiếu Chúa Thánh Thần – Đấng thu hút [người ta] đến với Chúa Giêsu – thì Giáo hội không có ở đó. Có thể có một câu lạc bộ tình bạn đẹp đẽ, tốt đẹp, với những ý định tốt, nhưng không phải là Giáo hội, không phải tính đồng nghị.
Cầu nguyện là động lực của việc loan báo Tin Mừng
Khi đọc sách Công vụ Tông đồ, chúng ta khám phá động cơ mạnh mẽ của việc loan báo Tin Mừng chính là những buổi quy tụ cầu nguyện, nơi những người tham gia cảm nghiệm cách sống động sự hiện diện của Chúa Giêsu và được Chúa Thánh Thần đánh động. Các thành viên của cộng đoàn tiên khởi – nhưng điều này luôn đúng, ngay cả đối với chúng ta ngày nay – nhận thức rằng câu chuyện về cuộc gặp gỡ với Chúa Giê-su không kết thúc ở giây phút Chúa lên trời, nhưng còn tiếp tục trong cuộc sống của họ. Khi thuật lại những gì Chúa đã nói và đã làm, khi cầu nguyện để hiệp thông với Người, tất cả mọi người trở nên sống động. Lời cầu nguyện truyền lan ánh sáng và sự hăng hái: ân sủng của Chúa Thánh Thần làm nảy sinh trong lòng họ sự nhiệt thành.
Làm cho Chúa Giê-su hiện diện
Về vấn đề này, Sách Giáo lý có một cách diễn đạt rất quan trọng: “Chúa Thánh Thần, Đấng nhắc lại mầu nhiệm Chúa Ki-tô cho Giáo hội đang cầu nguyện, cũng dẫn đưa Giáo hội đến Chân Lý trọn vẹn và khởi hứng những mẫu kinh mới để diễn tả mầu nhiệm khôn dò thấu về Chúa Ki-tô, Đấng đang hoạt động trong cuộc sống, trong các bí tích và trong sứ vụ của Hội Thánh” (n. 2625). Đây là công việc của Thánh Linh trong Giáo Hội: nhắc nhớ về Chúa Giêsu. Chính Chúa Giêsu đã nói điều đó: Ngài sẽ dạy dỗ anh em và nhắc nhở anh em. Sứ vụ của Chúa Thánh Thần là nhắc nhớ về Chúa Giê-su, nhưng không đơn giản là nhớ lại các sự kiện. Các Kitô hữu, đang bước đi trên các nẻo đường truyền giáo, nhắc nhớ đến Chúa Giêsu khi làm cho Người hiện diện một lần nữa; và từ Người, từ Thần Khí của Người, họ nhận được “sự thúc đẩy” để ra đi, loan báo và phục vụ. Trong cầu nguyện, người Kitô hữu đắm mình trong mầu nhiệm Thiên Chúa, mầu nhiệm Thiên Chúa yêu thương mọi người và mầu nhiệm về Thiên Chúa, Đấng mong muốn Tin Mừng được rao giảng cho mọi người. Thiên Chúa là Thiên Chúa của mọi người, và nơi Chúa Giêsu mọi bức tường ngăn cách đã vĩnh viễn bị sụp đổ: như thánh Phaolô đã nói: Người là bình an của chúng ta, nghĩa là “Người đã liên kết đôi bên, dân Do-thái và dân ngoại, thành một” (Ep 2,14). Chúa Giê-su đã tạo nên sự hiệp nhất.
Do đó, đời sống của Giáo hội sơ khai được nhấn mạnh bởi một chuỗi liên tiếp các cử hành, các cuộc triệu tập, thời gian cầu nguyện cộng đoàn và cá nhân, và chính Chúa Thánh Thần ban sức mạnh cho những người rao giảng để họ lên đường, và cho những ai vì yêu mến Chúa Giêsu mà chèo thuyền vượt biển, đương đầu với nguy hiểm, chịu sỉ nhục.
Tình yêu là nguồn gốc thần bí của cuộc sống con người
Thiên Chúa ban tình yêu và yêu cầu tình yêu. Đây là nguồn gốc mầu nhiệm của tất cả cuộc sống của người tin. Các Ki-tô hữu sơ khai cầu nguyện, nhưng cả chúng ta, những người đến sau hàng thế kỷ, tất cả đều sống cùng một kinh nghiệm. Chúa Thánh Thần là linh hồn của mọi việc. Và mỗi Ki-tô hữu không ngại dành thì giờ để cầu nguyện có thể làm theo lời thánh Phao-lô: “Hiện nay tôi sống kiếp phàm nhân trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi” (Gl 2,20). Cầu nguyện giúp anh chị em nhận thức được điều này. Chỉ trong sự im lặng của thờ kính chúng ta mới có thể cảm nghiệm được toàn bộ chân lý của những lời này. Và lời cầu nguyện này là ngọn lửa sống động của Chúa Thánh Thần, Đấng ban sức mạnh cho việc làm chứng và sứ vụ truyền giáo.
Nguồn: vaticannews.va/vi
Ngày 02.12.2020
Bài 17: Sự chúc lành
Anh chị em thân mến, chào anh chị em!
Hôm nay chúng ta sẽ suy niệm về một chiều kích thiết yếu của việc cầu nguyện: sự chúc lành. Chúng tôi đang tiếp tục suy tư về chủ đề cầu nguyện. Sách Sáng Thế cho thấy chúc tụng là một chiều kích thiết yếu của việc cầu nguyện. Trong các trình thuật về sáng tạo (x. St 1-2), Thiên Chúa luôn luôn chúc lành cho sự sống. Người chúc lành cho các loài vật (1,22), cho người nam và người nữ (1,28), cuối cùng Người chúc lành cho ngày Sa-bát, ngày nghỉ ngơi và giải trí của mọi tạo vật (2,3). Trong những trang đầu tiên của Kinh Thánh, các lời chúc lành được lập lại liên tục. Thiên Chúa chúc lành, nhưng loài người cũng chúc tụng, và chẳng bao lâu người ta phát hiện ra rằng phúc lành có một sức mạnh đặc biệt, đồng hành với người nhận được nó trong suốt cuộc đời, và giúp trái tim con người sẵn sàng để mình được Thiên Chúa biến đổi (VAT. II, Sacrosanctum Concilium, 61).
Hình ảnh Thiên Chúa nơi con người không thể bị xóa bỏ
Ý nghĩa của từ chúc lành – “benedire” trong tiếng Ý – có nghĩa là “nói tốt”: Do đó, vào thuở ban đầu của thế giới, có một Thiên Chúa Đấng “nói-điều tốt”, chúc lành, nói-điều lành. Người thấy rằng mọi công việc do tay Người làm đều tốt đẹp, và khi Người tạo dựng con người, và công trình sáng tạo được hoàn thành, Người nhận thấy rằng con người “rất tốt” (St 1,31). Nhưng không lâu sau đó, vẻ đẹp mà Thiên Chúa đã in sâu trong tác phẩm của Người bị thay đổi, và con người trở thành một tạo vật suy thoái, có khả năng gieo rắc sự dữ và sự chết trên thế giới; nhưng không gì có thể xóa được dấu ấn đầu tiên của Thiên Chúa, một dấu ấn của sự tốt lành mà Thiên Chúa đã đặt trên thế giới, trong bản chất con người, trong tất cả chúng ta: khả năng chúc tụng và được chúc lành. Thiên Chúa không sai lầm trong công trình sáng tạo cũng không sai khi tạo dựng con người. Niềm hy vọng của thế giới hoàn toàn nằm trong chúc lành của Thiên Chúa: Người tiếp tục mong muốn điều tốt cho chúng ta, như nhà thơ Péguy nói, Thiên Chúa là người đầu tiên tiếp tục hy vọng điều tốt lành cho chúng ta (The Portico of the Mystery of the Second Virtue, ấn bản đầu tiên 1911).
Chúa Giê-su Ki-tô là phúc lành vĩ đại nhất
Đó là lý do mà phúc lành vĩ đại nhất của Thiên Chúa là Chúa Giêsu Kitô, món quà tuyệt vời của Thiên Chúa. Đó là một phúc lành cho toàn thể nhân loại, một phúc lành đã cứu độ tất cả chúng ta. Người là Ngôi Lời vĩnh cửu, qua Người Chúa Cha đã chúc phúc cho chúng ta “khi chúng ta còn là tội nhân” (Rm 5,8) Thánh Phaolô đã nói: Ngôi Lời đã làm người và hiến dâng cho chúng ta trên thập giá.
Thánh Phao-lô xúc động công bố kế hoạch tình yêu của Thiên Chúa và nói: “Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta. Trong Đức Ki-tô, từ cõi trời, Người đã thi ân giáng phúc cho ta hưởng muôn vàn ơn phúc của Thánh Thần. Trong Đức Ki-tô, Người đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ, để trước thánh nhan Người, ta trở nên tinh tuyền thánh thiện, nhờ tình thương của Người. Theo ý muốn và lòng nhân ái của Người, Người đã tiền định cho ta làm nghĩa tử nhờ Đức Giê-su Ki-tô, để ta hằng ngợi khen ân sủng rạng ngời, ân sủng Người ban tặng cho ta trong Thánh Tử yêu dấu” (Ep 1,3-6).
Thiên Chúa không bao giờ ngừng chúc lành cho chúng ta
Không có tội lỗi nào có thể xóa bỏ hoàn toàn hình ảnh Chúa Kitô hiện diện trong mỗi người chúng ta, hình ảnh Chúa Kitô đã ban cho chúng ta. Tội lỗi có thể làm cho hình ảnh này bị biến dạng, nhưng không thể xóa đi lòng thương xót của Thiên Chúa. Một tội nhân có thể sống trong sai lỗi trong thời gian dài, nhưng Thiên Chúa kiên nhẫn đến cùng, với hy vọng rằng cuối cùng trái tim đó sẽ mở ra và thay đổi. Thiên Chúa giống như một người cha tốt, một người mẹ hiền: họ không bao giờ hết yêu thương người con của mình, dù cho nó có thể làm điều gì sai đi nữa.
Đối với Thiên Chúa, chúng ta quan trọng hơn các tội đã phạm
Điều hiện lên trong tâm trí tôi là đã nhiều lần tôi thấy rất nhiều bà mẹ xếp hàng dài để vào nhà tù thăm con của họ. Họ không hết yêu thương con và họ biết rằng những người ngồi trên xe buýt đi ngang qua sẽ nhìn họ và nói: “À đây là bà mẹ của tên tù nhân…”. Họ không xấu hổ vì điều này, bởi vì con của họ quan trọng hơn sự xấu hổ họ gặp phải. Cũng thế, đối với Thiên Chúa, chúng ta quan trọng hơn mọi tội lỗi mà chúng ta đã phạm. Thiên Chúa là cha, là mẹ, và luôn chúc lành cho chúng ta. Người sẽ không bao giờ ngừng chúc lành cho chúng ta.
Ân sủng của Thiên Chúa thay đổi cuộc sống
Thật là một trải nghiệm ấn tượng khi đọc những đoạn Kinh Thánh về phước lành này trong nhà tù hoặc trong một nhóm phục hồi. Những người ở đó nhận ra rằng họ vẫn được chúc lành bất chấp những lỗi lầm nghiêm trọng của họ, cảm thấy rằng Cha trên trời tiếp tục mong muốn điều tốt đẹp cho họ và hy vọng rằng cuối cùng họ sẽ mở lòng với điều tốt đẹp. Ngay cả khi những người thân nhất của họ bỏ rơi họ vì cho rằng họ là những người không thể hoán cải hay thay đổi, thì đối với Chúa, họ vẫn luôn là những người con. Thiên Chúa không thể xóa nhòa hình ảnh người con trong chúng ta, mỗi người chúng ta là con trai, con gái của Người. Đó là lý do có những phép lạ xảy ra: những người nam người nữ được tái sinh vì họ tìm thấy phúc lành đã xức dầu cho họ khi còn là trẻ em. Vì ân sủng của Thiên Chúa thay đổi cuộc sống: Ngài đón nhận chúng ta như chúng ta vốn có, nhưng Ngài không bao giờ rời bỏ chúng ta như chúng ta vốn có.
Chúa Giê-su nhìn thấy phúc lành của Chúa Cha nơi chúng ta
Chẳng hạn, chúng ta hãy nghĩ về những gì Chúa Giêsu đã làm với ông Giakêu, người bị xem là kẻ tội lỗi (x. Lc 19, 1-10). Mọi người đều nhìn thấy cái ác ở anh ta; thay vào đó, Chúa Giêsu nhìn thấy một tia sáng tốt lành, và từ đó – từ sự tò mò muốn nhìn thấy Chúa Giêsu – Ngài để cho lòng thương xót cứu rỗi đi qua. Vì vậy, trước hết tấm lòng của Giakêu đã được thay đổi, rồi đến cuộc đời ông. Chúa Giêsu nhìn thấy phúc lành không thể xóa nhòa của Chúa Cha nơi những người bị khước từ và khước từ. Giakêu là một tội nhân công khai; ông ấy đã làm biết bao điều khủng khiếp, nhưng Chúa Giêsu đã nhìn thấy dấu hiệu không thể xóa nhòa về ơn lành của Chúa Cha và vì điều đó, Ngài đã động lòng thương xót. Cụm từ được lặp đi lặp lại thường xuyên trong Tin Mừng: “Người động lòng thương xót”, và lòng thương xót đó đã khiến Người giúp đỡ và thay đổi tâm hồn ông. Hơn nữa, Chúa Giêsu đã đồng hóa mình với mọi người đang cần giúp đỡ (x. Mt 25:31-46). Trong đoạn nói về cuộc phán xét cuối cùng mà tất cả chúng ta sẽ bị phán xét, Mt 25, Chúa Giêsu nói: “Ta đói, ta trần truồng, ta ở tù, ta nằm bệnh viện, ta ở đó…”.
Chúc tụng, thờ lạy và tạ ơn Chúa
Để đạp lại Thiên Chúa là Đấng ban phúc lành, chúng ta cũng dâng lên Ngài bằng lời chúc tụng – Thiên Chúa đã dạy chúng ta cách chúc phúc và chúng ta phải chúc phúc – qua lời cầu nguyện ca ngợi, thờ phượng, tạ ơn. Sách Giáo lý viết: “Lời kinh chúc tụng là lời đáp của con người đối với những hồng ân của Thiên Chúa: vì Thiên Chúa chúc lành, tâm hồn con người có thể chúc tụng để đáp lại Đấng là nguồn mạch mọi phúc lành” (số 2626). Cầu nguyện là niềm vui và lòng biết ơn. Thiên Chúa không đợi chúng ta hoán cải trước khi Người bắt đầu yêu thương chúng ta, nhưng Người đã làm điều đó thật lâu trước đó, khi chúng ta vẫn còn trong tội lỗi.
Không nguyền rủa, nhưng hãy chúc phúc
Chúng ta không chỉ chúc tụng Thiên Chúa, Đấng chúc lành cho chúng ta, nhưng chúng ta phải chúc lành cho mọi thứ trong Người, tất cả mọi người, chúc tụng Thiên Chúa và chúc lành cho các anh em, chúc lành cho thế giới và đây là gốc rễ của sự hiền dịu Kitô giáo, khả năng cảm thấy được chúc phúc và khả năng chúc phúc. Nếu tất cả chúng ta đều làm như thế, chiến tranh chắc chắn sẽ không tồn tại. Thế giới này cần phúc lành và chúng ta có thể chúc lành và nhận phúc lành. Chúa Cha yêu thương chúng ta. Và điều chúng ta có là niềm vui chúc tụng Người và tạ ơn Người, và học từ Người việc không nguyền rủa, nhưng hãy chúc phúc.
Ở đây chỉ xin dành một lời cho những người có thói quen chửi bới, những người luôn nói xấu, chửi bới, trên môi và trong lòng. Mỗi người chúng ta có thể suy nghĩ: tôi có thói quen chửi bới như thế này không? Và hãy xin Chúa ban ơn để thay đổi thói quen này để chúng ta có một trái tim được chúc lành và từ một trái tim được chúc lành sẽ không phát ra những lời nguyền rủa. Xin Chúa dạy chúng ta đừng bao giờ nguyền rủa nhưng hãy chúc phúc.
Nguồn: vaticannews.va/vi
Ngày 09.12.2020
Bài 18: Lời cầu nguyện cầu xin
Anh chị em thân mến,
Chúng ta hãy tiếp tục suy tư về việc cầu nguyện. Lời cầu nguyện của Kitô giáo hoàn toàn mang tính nhân bản – chúng ta cầu nguyện với tư cách là con người, với tư cách là con người chúng ta – nó bao gồm lời khen ngợi và cầu xin.
Hai yếu tố của lời cầu nguyện Ki-tô giáo là ngợi khen và cầu xin
Thật vậy, khi Chúa Giê-su dạy các môn đệ cầu nguyện, Chúa đã dạy bằng “kinh Lạy Cha”, để chúng ta có thể đặt mình trong mối tương quan tin tưởng của con cái với Thiên Chúa và nói với Người mọi yêu cầu của chúng ta. Chúng ta cầu xin Người những ơn huệ cao cả nhất như xin cho Danh Người hiển thánh, Vương quốc của Người hiển trị, thánh ý của Người đối với thế giới được thực hiện. Sách Giáo lý nhắc rằng: “Phải khẩn cầu theo thứ tự: trước hết là cầu xin ‘Nước Cha trị đến’, rồi cầu xin Cha ban những ơn cần thiết để đón nhận Nước Trời và cộng tác vào việc mở mang Nước Chúa” (số 2632).
Nhưng trong kinh “Lạy Cha”, chúng ta cũng cầu nguyện xin những ơn đơn giản nhất và hàng ngày, ví dụ như “lương thực hàng ngày” – cũng có nghĩa là sức khỏe, nhà cửa, công việc; và cả Thánh Thể, cần thiết cho sự sống trong Chúa Kitô; cũng như ơn được tha thứ tội lỗi, là một điều hàng ngày vì chúng ta luôn cần ơn tha thứ, và sự bình an trong các mối quan hệ của chúng ta; và cuối cùng xin Người giúp chúng ta trước những cám dỗ và giải thoát chúng ta khỏi điều ác.
Ý thức chúng ta là thụ tạo được Thiên Chúa tạo dựng
Để cầu xin, điều này rất con người, chúng ta hãy nghe lại Giáo lý: “Trong kinh nguyện khẩn cầu, chúng ta bộc lộ ý thức về tương quan giữa mình với Thiên Chúa: Chúng ta là thụ tạo, không phải tự mình mà có, không làm chủ được những nghịch cảnh trong đời, không phải là cùng đích đời mình; chẳng những vậy, là người Ki-tô hữu, chúng ta biết mình tội lỗi, đã phản nghịch lại Thiên Chúa là Cha chúng ta. Khi khẩn cầu, con người đã quay về với Thiên Chúa” (số 2629).
Ý thức về giới hạn của chúng ta
Nếu một người cảm thấy tồi tệ vì đã làm những điều xấu – người đó là tội nhân – khi cầu nguyện Kinh Lạy Cha là người đó đang đến gần Chúa. Đôi khi chúng ta có thể tin mình không cần điều gì, tự mình là đủ và chúng ta sống hoàn toàn tự cảm thấy mình là đủ. Nhưng sớm muộn gì ảo tưởng này cũng biến mất. Con người là một lời cầu khẩn, đôi khi trở thành một tiếng kêu, thường bị đè nén. Linh hồn giống như một mảnh đất khô cằn, thiếu nước, như Thánh Vịnh đã nói (x. Tv 63,2). Tất cả chúng ta đều trải qua, tại thời điểm này hay thời điểm khác của cuộc sống của mình, thời gian u sầu hoặc cô đơn.
Kinh Thánh không xấu hổ khi cho thấy tình trạng con người bị đánh dấu bởi bệnh tật, sự bất công, sự phản bội của bạn bè hoặc sự đe dọa của kẻ thù. Đôi khi tưởng chừng như mọi thứ sụp đổ, cuộc sống đã sống cho đến nay thật vô ích. Và trong những tình huống này – khi mọi thứ dường như sụp đổ – dường như không có lối thoát thì có lối thoát duy nhất: tiếng kêu, lời cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin giúp con!” Lời cầu nguyện mở ra những tia sáng trong bóng tối dày đặc nhất, mở ra con đường, mở ra lối đi.
Mọi loài cùng chúng ta cầu nguyện
Con người chúng ta chia sẻ với muôn loài thụ tạo lời cầu xin trợ giúp này. Chúng ta không phải là những người duy nhất “cầu nguyện” trong vũ trụ rộng lớn này. Mỗi mảnh thụ tạo mang ước muốn được ghi khắc của Thiên Chúa. Và chính thánh Phao-lô đã diễn tả điều này. Ngài nói: “Thật vậy, chúng ta biết rằng: cho đến bây giờ, muôn loài thụ tạo cùng rên siết và quằn quại như sắp sinh nở. Không phải muôn loài mà thôi, cả chúng ta, những người đã lãnh nhận Thần Khí như ân huệ mở đầu, cũng rên siết trong lòng” (Rm 8,22-24). Trong lòng chúng ta vang lên tiếng rên rỉ muôn hình vạn trạng của các thụ tạo: cây cối, đất đá, muông thú… Mọi thứ đều khao khát đến ngày được thành toàn.
Giáo phụ Tertulliano đã viết: «Mọi thụ tạo, muông thú cầu nguyện và mọi đầu gối quỳ xuống… Và cả những con chim, khi chúng bay lên trời, và sải cánh như thể chúng đang chắp tay theo hình chữ thập, cũng kêu một tiếng như cầu nguyện” (De Oratione, XXIX). Đây là một cách diễn đạt đầy chất thơ để giải thích về những gì thánh Phao-lô nói “muôn loài rên xiết, cầu nguyện”. Nhưng chúng ta là những sinh vật duy nhất cầu nguyện không ngừng, biết rằng chúng ta hướng về Chúa Cha và đối thoại với Người.
Đừng xấu hổ khi cầu xin Chúa
Vì vậy, chúng ta đừng cảm thấy bị sốc nếu chúng ta thấy cần phải cầu nguyện; đừng xấu hổ. Nhất là khi chúng ta đang cần điều gì đó, hãy cầu xin. Chúa Giê-su nói về một đầy tớ bất lương phải kết toán sổ với chủ của mình, người đó nói thế này: “Ăn mày thì hổ ngươi.” Và nhiều người trong chúng ta có cảm giác này: chúng ta xấu hổ khi cầu xin, khi cầu xin sự giúp đỡ, khi yêu cầu ai đó giúp chúng ta điều gì đó để đạt được mục tiêu nào đó, và cũng xấu hổ khi cầu xin Chúa. Đừng xấu hổ khi cầu nguyện. Hãy thưa: “Lạy Chúa, con cần điều này”, “Lạy Chúa, con đang gặp khó khăn này”, “Xin giúp con!”: Tiếng kêu của con tim hướng về Thiên Chúa là Cha. Và cũng hãy làm điều đó trong những khoảnh khắc hạnh phúc, chứ không chỉ trong những giờ phút tồi tệ; trong những khi hạnh phúc hãy cảm ơn Thiên Chúa về mọi điều Người đã ban cho chúng ta và đừng xem bất cứ điều gì như là đương nhiên hoặc chúng ta xứng đáng được: mọi thứ đều là ân sủng.
Chúng ta phải học điều này. Chúa luôn ban cho chúng ta, luôn luôn, và mọi thứ đều là ân sủng, tất cả mọi thứ. Tuy nhiên, chúng ta đừng bóp nghẹt lời khẩn cầu tự phát nảy sinh trong lòng mình. Lời cầu nguyện khẩn xin đi đôi với việc chấp nhận những giới hạn của chúng ta và chấp nhận chúng ta là những thụ tạo. Người ta thậm chí có thể không tin vào Chúa, nhưng rất khó để không tin vào lời cầu nguyện: nó chỉ đơn giản là tồn tại; nó đến với chúng ta như một tiếng kêu; và tất cả chúng ta đều biết tiếng nói nội tâm này có thể im lặng trong một thời gian dài, nhưng một ngày nó sẽ thức dậy và la lên.
Không có tiếng kêu nào không được Chúa lắng nghe
Chúng ta biết rằng Thiên Chúa sẽ trả lời. Không có người nào trong sách Thánh Vịnh cầu nguyện, cất lên lời than thở mà Chúa vẫn không lắng nghe: hôm nay hay ngày mai, nhưng Người luôn trả lời, theo cách này hay cách khác. Kinh Thánh lặp đi lặp lại điều đó vô số lần: Thiên Chúa nghe tiếng kêu của những kẻ cầu khẩn Người. Ngay cả những câu hỏi lắp bắp của chúng ta, ngay cả những câu hỏi đọng lại trong sâu thẳm tâm hồn mà chúng ta xấu hổ khi bày tỏ, thì Chúa Cha cũng lắng nghe chúng và muốn ban Chúa Thánh Thần của Người cho chúng ta, Đấng linh hoạt mọi lời cầu nguyện và biến đổi mọi sự.
Kiên nhẫn trong cầu nguyện
Bây giờ chúng ta đang ở trong thời gian của Mùa Vọng, một thời gian điển hình của sự chờ đợi; chờ đón lễ Giáng sinh. Chúng ta đang chờ đợi. Chúng ta thấy rõ điều này. Nhưng cả cuộc đời chúng ta cũng sống trong chờ đợi. Và lời cầu nguyện luôn chờ đợi, bởi vì chúng ta biết rằng Chúa sẽ nhậm lời. Ngay cả cái chết cũng run rẩy khi một Ki-tô hữu cầu nguyện, vì họ biết rằng mỗi người cầu nguyện đều có một đồng minh mạnh mẽ hơn sự chết: đó là Chúa Phục sinh. Sự chết đã bị đánh bại trong Chúa Ki-tô, và sẽ đến ngày khi mọi thứ đều xác định, và sự chết sẽ không còn chế giễu cuộc sống và hạnh phúc của chúng ta nữa.
Hãy chờ đợi
Chúng ta hãy học cách chờ đợi; chờ đợi Chúa. Chúa đến thăm chúng ta, không chỉ trong những ngày lễ trọng đại này – lễ Giáng sinh, lễ Phục sinh – mà Chúa đến thăm chúng ta mỗi ngày trong sâu thẳm của trái tim nếu chúng ta đang chờ đợi. Và nhiều khi chúng ta không nhận ra rằng Chúa đang ở gần, không nhận ra Người đang gõ cửa nhà chúng ta và chúng ta đã để Người đi ngang qua. Thánh Augustinô nói: “Tôi sợ Chúa khi Người đi qua”, “Tôi sợ rằng Người đi qua và tôi không nhận ra Người”. Và Chúa đi ngang qua, Chúa đến, Chúa gõ cửa. Nhưng nếu đôi tai của bạn đầy những tiếng ồn khác, bạn sẽ không nghe thấy tiếng gọi của Chúa.
Anh chị em, hãy chờ đợi: đây là lời cầu nguyện.
Nguồn: vaticannews.va/vi
Ngày 16.12.2020
Bài 19: Lời cầu nguyện chuyển cầu
Anh chị em thân mến,
Ai cầu nguyện thì không bao giờ quay lưng lại với thế giới. Nếu việc cầu nguyện không bao gồm niềm vui nỗi đau, hy vọng và sầu lo của nhân loại, nó trở thành một hoạt động “trang trí”, một thái độ hình thức, trình diễn … Tất cả chúng ta cần đời sống nội tâm: rút lui vào không gian và thời gian dành riêng cho mối quan hệ của chúng ta với Thiên Chúa. Nhưng điều này không có nghĩa là trốn tránh thực tại.
Ki-tô hữu là bánh được bẻ ra và chia sẻ
Trong cầu nguyện, Thiên Chúa “nhận lấy chúng ta, chúc lành cho chúng ta, và bẻ chúng ta ra và ban chúng ta” cho tha nhân, vì sự đói khát của tất cả mọi người. Mỗi Ki-tô hữu được kêu gọi trở thành bánh được bẻ ra và chia sẻ trong bàn tay Thiên Chúa.
Vào nơi thanh vắng để nghe tiếng Chúa tốt hơn
Cũng như thế, những người cầu nguyện tìm kiếm sự thanh vắng và thinh lặng, không phải để không bị quấy rầy, nhưng để nghe tiếng Thiên Chúa tốt hơn. Đôi khi họ rút lui khỏi thế giới, trong bí mật của căn phòng riêng của họ, như chính Chúa Giêsu khuyên nhủ (x. Mt 6,6), nhưng dù ở đâu, họ vẫn luôn mở rộng cánh cửa lòng mình: một cánh cửa rộng mở cho những người không cầu nguyện hay không biết cầu nguyện; cho những ai không cầu nguyện gì cả nhưng mang trong mình một tiếng kêu bị bóp nghẹt, một lời khẩn cầu dấu kín; cho những người lầm đường, lạc lối…
Cầu nguyện là trở thành trái tim và tiếng nói của người không cầu nguyện
Bất cứ ai cũng có thể gõ cửa tâm hồn của người cầu nguyện và tìm thấy ở người ấy tấm lòng nhân ái, cầu nguyện cho tất cả, không loại trừ ai. Cầu nguyện là trái tim, là tiếng nói của chúng ta, và là trái tim và tiếng nói của nhiều người không biết cầu nguyện hay không cầu nguyện, hay không muốn cầu nguyện, hay không thể cầu nguyện: chúng ta là trái tim và tiếng nói của những người này hướng về Chúa Giê-su, hướng lên Chúa Cha như người chuyển cầu.
Tìm kiếm mọi sự và mọi người trong Thiên Chúa
Trong thanh vắng, chúng ta tách biệt khỏi mọi thứ và mọi người để tìm kiếm mọi thứ và mọi người trong Thiên Chúa. Như vậy người cầu nguyện cầu nguyện cho toàn thế giới, mang trên vai những đau đớn và tội lỗi. Họ cầu nguyện cho tất cả và mỗi người: như thể họ là “ăng-ten” của Thiên Chúa trên thế giới này. Nơi mỗi người nghèo gõ cửa, nơi mỗi người đánh mất ý nghĩa về mọi thứ, người cầu nguyện đều nhìn thấy gương mặt Chúa Kitô.
Chuyển cầu là khẩn cầu cho người khác
Sách Giáo lý viết: “Chuyển cầu là khẩn cầu cho người khác… là đặc tính của một tâm hồn hòa theo lòng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa”. Thật là tuyệt vời. Khi cầu nguyện, chúng ta hòa vào lòng thương xót của Thiên Chúa, lòng thương xót đối với tội lỗi của chúng ta, thương xót chúng ta, nhưng cả đối với tất cả những người xin cầu nguyện cho họ, những người mà chúng ta muốn cầu nguyện cùng với trái tim của Thiên Chúa. Đây là cầu nguyện thật sự. “Trong thời đại của Hội Thánh, lời chuyển cầu của Ki-tô hữu tham dự vào kinh nguyện chuyển cầu của Đức Ki-tô, đây là cách diễn tả mầu nhiệm các thánh thông công” (số 2635).
Tham dự vào kinh nguyện chuyển cầu của Đức Ki-tô nghĩa là gì? Khi tôi chuyển cầu hay cầu nguyện cho ai đó: bởi vì Chúa Ki-tô là Đấng chuyển cầu trước mặt Chúa Cha, cầu nguyện cho chúng ta, và Người cầu nguyện bằng cách tỏ cho Chúa Cha thấy những vết thương trên tay Người, bởi vì Chúa Giê-su hiện diện cách thể lý, với thân xác Người trước mặt Chúa Cha. Chúa Giê-su là Đấng chuyển cầu cho chúng ta và cầu nguyện là làm giống Chúa Giê-su một tí: cầu khẩn với Chúa Cha cho người khác nhân danh Chúa Giê-su.
Ai không yêu thương thì chỉ giả vờ cầu nguyện
Cầu nguyện đơn giản là con người. Trái tim con người hướng đến việc cầu nguyện. Nhưng cầu nguyện cần có tình yêu thương anh chị em. Ai không yêu anh chị em mình thì không thật sự cầu nguyện. Lời cầu nguyện chỉ được thực hiện trong tinh thần yêu thương. Những người không yêu thương chỉ giả vờ cầu nguyện hoặc họ tin rằng họ đang cầu nguyện, nhưng họ không cầu nguyện vì thiếu tinh thần, đó là tình yêu.
Kinh nghiệm của con người hiện diện trong mỗi lời cầu nguyện, bởi vì dù con người có thể phạm sai lầm đến mức nào, họ cũng không bao giờ bị từ chối hoặc loại bỏ.
Khiêm nhường cầu nguyện
Khi một tín hữu, được Chúa Thánh Thần thúc đẩy, cầu nguyện cho tội nhân, họ không lựa chọn, không đưa ra lời phán xét kết án: họ cầu nguyện cho mọi người. Và họ cũng cầu nguyện cho chính mình, và vào lúc đó họ biết rằng mình không quá khác biệt so với những người họ cầu nguyện cho: họ cảm thấy mình là người tội lỗi giữa những người tội lỗi, và họ cầu nguyện cho tất cả.
Bài học dụ ngôn người Pharisêu và người thu thuế luôn sống động và thời sự (x. Lc 18,9-14): chúng ta không tốt hơn ai hết, chúng ta đều là anh em trong một cộng đoàn mong manh, đau khổ và tội lỗi. Vì thế lời cầu nguyện mà chúng ta có thể dâng lên Chúa là: “Lạy Chúa, không ai là người công chính trước nhan Chúa (x. Tv 143, 2), chúng con đều là những con nợ, mỗi người có khoản nợ lớn cần phải trả; không có ai là vô tội trong mắt Chúa. Lạy Chúa, xin thương xót chúng con!”.
Vai trò của người cầu nguyện đối với thế
Thế giới tiếp tục tiến bước nhờ vào những người cầu nguyện, những người đã chuyển cầu, và những người hầu như không được biết đến… nhưng Chúa biết họ! Có nhiều Kitô hữu vô danh, trong những lần bị bách hại, đã có thể lặp lại lời của Chúa Giê-su: “Lạy Cha, xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34).
Sứ mạng chuyển cầu của Giáo hội
Vị Mục tử Tốt lành vẫn trung thành ngay cả khi ý thức về tội lỗi của chính dân tộc mình: Người vẫn là một người Cha ngay cả khi con cái xa cách và bỏ rơi Người. Người kiên trì phục vụ như người mục tử ngay cả đối với những người buộc Người phải vấy bẩn đôi tay; Người không đóng cửa trái tim của mình với những người đã từng làm Người đau khổ.
Do đó, Giáo Hội, trong tất cả các thành viên của mình, có sứ mệnh thực hành việc cầu thay nguyện giúp: chuyển cầu cho người khác. Điều này đặc biệt đối với những ai có vai trò trách nhiệm: cha mẹ, thầy cô, thừa tác viên có chức thành, các bề trên cộng đoàn… Giống như Abraham và Mô-sê, đôi khi họ phải “bảo vệ” những người được giao phó cho họ trước mặt Chúa. Trong thực tế, chúng ta đang nói về việc bảo vệ họ theo cái nhìn và tấm lòng của Thiên Chúa, bằng lòng nhân ái và sự dịu dàng không thể vượt thắng của Người.
Cầu nguyện cho nhau
Anh chị em thân mến, tất cả chúng ta đều là những chiếc lá của cùng một cây: mỗi chiếc lá rụng đều nhắc nhở chúng ta về lòng thương xót cao cả mà chúng ta phải nuôi dưỡng trong lời cầu nguyện cho nhau. Chúng ta hãy cầu nguyện cho nhau. Điều này sẽ tốt cho chúng ta và cho tất cả mọi người.
Nguồn: vaticannews.va/vi
Ngày 30.12.2020
Bài 20: Lời cầu nguyện tạ ơn
Anh chị em thân mến,
Hôm nay tôi muốn tập trung vào lời cầu nguyện tạ ơn. Và tôi lấy gợi ý từ một tình tiết được Thánh sử Luca kể lại. Khi Chúa Giêsu đang đi đường, có mười người cùi đến gần Người và van xin: “Lạy Thầy Giêsu, xin thương xót chúng tôi!” (17:13). Chúng ta biết rằng những người mắc bệnh phong cùi không chỉ phải chịu đựng về thể xác mà còn bị gạt ra ngoài lề xã hội và bị gạt ra ngoài lề tôn giáo. Họ đã bị gạt ra ngoài lề xã hội. Chúa Giêsu đã không lùi bước khi gặp họ. Đôi khi, Ngài vượt quá những giới hạn do luật pháp quy định và chạm vào người bệnh – điều không được phép – Ngài ôm lấy và chữa lành họ. Trong trường hợp này, không có liên lạc. Từ xa, Chúa Giêsu bảo họ đến trình diện với các tư tế (c. 14), những người được luật chỉ định chứng nhận bất kỳ sự chữa lành nào đã xảy ra. Chúa Giêsu không nói gì khác. Ngài đã lắng nghe lời cầu nguyện của họ, Ngài đã nghe thấy tiếng kêu xin lòng thương xót của họ, và Ngài đã gửi họ ngay đến các tư tế.
Mười người phong cùi đó tin tưởng, họ không ở đó đợi cho đến khi được chữa lành; họ tin tưởng và đi ngay lập tức, và khi đang đi thì họ được chữa lành, cả mười người đều lành. Do đó, các tư tế có thể đã nhìn thấy sự hồi phục của họ và cho họ trở lại cuộc sống bình thường. Nhưng ở đây có điểm quan trọng nhất: trong nhóm đó, chỉ có một người, trước khi đi gặp các thầy tư tế, đã quay lại tạ ơn Chúa Giê-su và ngợi khen Thiên Chúa vì ân sủng đã nhận được. Chỉ một người, chín người còn lại tiếp tục hành trình. Và Chúa Giê-su lưu ý rằng người đàn ông đó là người Samaria, một loại “lạc giáo” đối với người Do Thái thời đó. Chúa Giê-su nhận xét: “Sao chẳng có ai trở lại tôn vinh Thiên Chúa, ngoại trừ người ngoại bang này?” (17,18).
Ân sủng đi trước lời tạ ơn
Câu chuyện này phân chia thế giới làm hai: một bên là những người không cảm ơn và bên kia là những người tạ ơn; một bên đón nhận mọi thứ như họ phải được nhận, và một bên đón nhận mọi thứ như một món quà, như một ân sủng. Sách Giáo lý viết: “Mọi biến cố và mọi nhu cầu đều có thể trở thành dịp để dâng lời tạ ơn” (số 2638). Do đó, Lời cầu nguyện tạ ơn luôn luôn bắt đầu từ đây: nhận ra mình nhận được ân sủng trước. Chúng ta đã được nghĩ đến trước khi chúng ta học cách suy nghĩ; chúng ta đã được yêu thương trước khi chúng ta học cách thương yêu; chúng ta đã được mong muốn trước khi một mong muốn nảy sinh trong tâm hồn chúng ta. Nếu chúng ta nhìn cuộc sống như thế này thì lời “cảm ơn” trở thành động lực ngày sống của chúng ta.
Món quà sự sống
Ki-tô hữu gọi bí tích quan trọng nhất, (bí tích Thánh Thể), là “Eucaristia”; trong tiếng Hy Lạp, từ này có nghĩa là tạ ơn. Đức Thánh Cha giải thích: Các Ki-tô hữu cũng như tất cả những người có đức tin, chúc tụng Chúa về món quà là sự sống. Sống, trên hết, có nghĩa là lãnh nhận: nhận được sự sống! Tất cả chúng ta được sinh ra bởi vì có ai đó mong muốn sự sống cho chúng ta. Và đây chỉ là khoản nợ đầu tiên trong một chuỗi dài những món nợ mà chúng ta mắc nợ trong cuộc sống. Nợ ơn nghĩa. Trong cuộc sống của chúng ta, có hơn một người đã nhìn chúng ta bằng đôi mắt trong sáng, hoàn toàn nhưng không. Thông thường họ là những nhà giáo dục, các giáo lý viên, những người đã thực hiện vai trò của mình vượt quá mức độ yêu cầu của bổn phận. Và họ đã khơi dậy lòng biết ơn trong chúng ta. Tình bạn cũng là một món quà để luôn biết ơn.
Tình yêu làm nảy sinh lòng biết ơn
Lời “cám ơn” này, lời mà chúng ta phải liên tục nói, lời mà Ki-tô hữu chia sẻ với mọi người, phát triển trong cuộc gặp gỡ với Chúa Giê-su. Các Tin Mừng chứng thực rằng khi Chúa Giê-su đi ngang qua, Người thường gợi lên trong lòng những người được gặp Người niềm vui và lời ngợi khen Thiên Chúa. Các tường thuật trong Tin Mừng kể về những người cầu nguyện, những người được sự giáng sinh của Chúa Cứu Thế tác động. Và chúng ta cũng được kêu gọi tham gia vào niềm hân hoan bao la này.
Và câu chuyện về mười người phong cùi được chữa lành cũng gợi ý điều này. Đương nhiên, mọi người đều vui mừng vì được hồi phục sức khỏe, có thể thoát ra khỏi sự cách ly bắt buộc liên tục khiến họ bị loại khỏi cộng đồng. Nhưng trong số họ có một người cảm nhận thêm một niềm vui: ngoài việc được chữa lành bệnh, anh ta còn vui mừng vì được gặp gỡ Chúa Giêsu, không những được giải thoát khỏi sự dữ, mà giờ đây anh ta còn chắc chắn được yêu thương. Đây là điều cốt lõi: khi bạn cảm ơn, bạn thể hiện sự chắc rằng bạn được yêu thương. Đó là khám phá ra tình yêu như sức mạnh điều khiển thế giới, như thi sĩ Dante đã nói: Tình yêu “làm di chuyển mặt trời và các vì sao khác” (Paradiso, XXXIII, 145 ). Chúng ta không còn là những lữ khách lang thang đây đó không mục đích: chúng ta có một ngôi nhà, chúng ta ở trong Chúa Ki-tô, và từ “nơi cư trú” này, chúng ta chiêm ngắm phần còn lại của thế giới, và nó dường như vô cùng đẹp hơn đối với chúng ta.
Niềm vui gặp gỡ Chúa
Anh chị em thân mến, chúng ta hãy luôn cố gắng sống trong niềm vui được gặp gỡ với Chúa Giêsu. Chúng ta hãy gieo trồng niềm vui. Ngược lại, ma quỷ, sau khi đã lừa dối chúng ta, luôn khiến chúng ta buồn bã và cô đơn. Nếu chúng ta ở trong Chúa Ki-tô, không có tội lỗi và sự đe dọa nào có thể ngăn cản chúng ta tiếp tục bước đi với niềm vui, cùng với rất nhiều bạn đồng hành.
Lòng biết ơn giúp thế giới tốt đẹp hơn
Đặc biệt, chúng ta đừng quên cảm ơn: nếu chúng ta là người mang lòng biết ơn thì thế giới cũng trở nên tốt đẹp hơn, dù chỉ một chút thôi, nhưng cũng đủ để truyền đi một chút hy vọng. Tất cả hiệp nhất và liên kết và mỗi người có thể làm phần việc của mình ở nơi của mình. Con đường hạnh phúc là điều mà Thánh Phao-lô đã mô tả ở cuối một trong những bức thư của ông: «Hãy cầu nguyện không ngừng, hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh: đó là điều Thiên Chúa muốn trong Chúa Giê-su Ki-tô. Anh em đừng dập tắt Thần Khí ”(1Ts 5 ,7-19). Đừng dập tắt Thần Khí, chương trình đẹp đẽ của sự sống! Đừng dập tắt Thánh Linh ở trong lòng chúng ta, Đấng hướng dẫn chúng ta đến lòng biết ơn.
Nguồn: vaticannews.va/vi
Ngày 13.01.2021
Bài 21: Lời cầu nguyện ngợi khen
Anh chị em thân mến,
Chúng ta hãy tiếp tục bài giáo lý về cầu nguyện và hôm nay chúng ta sẽ dành không gian cho chiều kích ngợi khen.
Chúng ta sẽ lấy gợi ý từ một giai đoạn quan trọng trong cuộc đời của Chúa Giêsu. Sau những phép lạ đầu tiên và việc các môn đệ tham gia vào việc công bố Vương quốc của Thiên Chúa, sứ mạng của Đấng Cứu Thế trải qua một giai đoạn khủng hoảng. Thánh Gioan Tẩy Giả nghi ngờ và sai các môn đệ đến hỏi Chúa: “Ngài có phải là Đấng phải đến hay chúng tôi phải đợi người khác?” (Mt 11,3); Chúa đối diện với những thù nghịch ở các làng dọc theo hồ Galilê, nơi Chúa Giê-su đã thực hiện nhiều dấu chỉ phi thường. Giờ đây, chính trong giây phút thất vọng này, thánh sử Matthêu đã thuật lại một sự kiện thật đáng ngạc nhiên: Chúa Giêsu không cất tiếng than thở với Chúa Cha, nhưng là một bài ca hân hoan: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho các bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn.” (Mt 11,25).
Chúa Giê-su ngợi khen Chúa Cha vì Người là Cha, là Chúa của trời đất
Giữa khủng hoảng, Chúa Giêsu chúc tụng Chúa Cha, ngợi khen Chúa Cha. Tại sao? Trước nhất và trên hết, Chúa Giê-su ngợi khen Chúa Cha vì chính Người là “Cha, Chúa của trời đất.” Chúa Giê-su vui mừng trong lòng vì Người biết và người cảm thấy rằng Cha của Người là Chúa của hoàn vũ, và ngược lại, Chúa của mọi loài hiện hữu là Chúa Cha, “Cha của Ta”. Lời ngợi khen của Chúa tuôn trào từ kinh nghiệm đã cảm nghiệm rằng Người là “Con của Đấng Tối Cao”.
Chúa Giê-su ngợi khen Chúa Cha vì Người yêu thích những người bé mọn
Chúa Giê-su cũng ngợi khen Chúa Cha vì Chúa Cha yêu thích những người bé mọn. Đó là điều mà chính Chúa Giê-su đã trải nghiệm khi rao giảng trong các làng: những người “thông thái” và “khôn ngoan” vẫn nghi ngờ và khép kín, trong khi “những người nhỏ bé” tự mở lòng và đón nhận sứ điệp của Chúa. Đây chỉ có thể là ý muốn của Chúa Cha, và Chúa Giê-su vui mừng về điều này.
Chúng ta cũng phải vui mừng và ngợi khen Thiên Chúa bởi vì những người khiêm nhường và đơn sơ đón nhận Tin Mừng. Trong tương lai của thế giới và trong niềm hy vọng của Giáo hội, có những “người nhỏ bé”: những người không coi mình là tốt hơn những người khác, những người nhận thức được những giới hạn của chính mình và tội lỗi của họ, những người không muốn thống trị người khác, những người mà trong Thiên Chúa là Cha, nhìn nhận rằng tất cả chúng ta là anh chị em.
Ngợi khen Chúa khi gặp thử thách
Vì vậy, trong giây phút thất bại rõ ràng đó, Chúa Giêsu cầu nguyện, ngợi khen Chúa Cha. Và lời cầu nguyện của Người cũng hướng dẫn chúng ta, những độc giả của Tin Mừng, đánh giá sự thất bại của cá nhân chúng ta theo một cách khác, những tình huống khi mà chúng ta không nhận thấy rõ sự hiện diện và hành động của Thiên Chúa, khi dường như sự dữ thắng thế và không còn cách nào để ngăn chặn nó. Chúa Giê-su đã đề nghị đặt nhiều câu hỏi khi cầu nguyện, nhưng vào đúng thời điểm mà lẽ ra Người có lý do để yêu cầu Chúa Cha giải thích thì Người lại bắt đầu ngợi khen Chúa Cha.
Lời ngợi khen mang lại ơn ích cho chúng ta
Lời khen ngợi cần thiết cho ai? Cho chúng ta hay cho Chúa? Một bản văn phụng vụ Thánh Thể mời gọi chúng ta cầu nguyện với Thiên Chúa như sau: “Lạy Chúa, tuy Chúa không cần chúng con ca tụng, nhưng việc chúng con cảm tạ Chúa lại là một hồng ân Chúa ban, vì những lời chúng con ca tụng chẳng thêm gì cho Chúa, nhưng đem lại cho chúng con ơn cứu độ” (Sách lễ Roma, Lời Tiền tụng chung IV).
Lời cầu nguyện ngợi khen có ích cho chúng ta. Sách Giáo lý định nghĩa nó như thế này: “Khi ca ngợi Thiên Chúa, chúng ta thông phần hạnh phúc của những tâm hồn trong sạch, những kẻ yêu mến Người trong đức tin trước khi được thấy Người trong Vinh Quang” (số 2639). Điều nghịch lý là nó phải được thực hành không chỉ khi cuộc sống tràn ngập hạnh phúc, mà trên hết là trong những khoảnh khắc khó khăn, khi con đường trở nên dốc đứng. Đó cũng là lúc để khen ngợi. Bởi vì chúng ta học biết rằng, qua sự leo dốc đó, khi đi qua con đường mệt mỏi đó, những đoạn đường đòi hỏi nhiều khó khăn, chúng ta có thể nhìn thấy một bức tranh toàn cảnh mới, một chân trời rộng lớn hơn.
Gương mẫu của các thánh
Có một giáo huấn tuyệt vời trong lời cầu nguyện mà suốt tám thế kỷ qua chưa bao giờ mất nhịp, được Thánh Phanxicô sáng tác vào cuối đời: “Bài ca anh mặt trời” hay còn gọi “Bài ca của các thụ tạo”. Vị thánh nghèo không sáng tác nó trong một thời điểm vui mừng, hạnh phúc; trái lại, ngài đã sáng tác nó giữa lúc khó khăn. Lúc đó, thánh Phanxicô gần như bị mù, và ngài cảm thấy trong tâm hồn mình nặng trĩu một sự cô độc chưa từng có: đó là thế giới không hề thay đổi kể từ khi ngài bắt đầu rao giảng, vẫn có những người để mình bị xé nát bởi những cuộc cãi vã, và thêm vào đó, ngài nhận thức được rằng cái chết đang đến gần hơn bao giờ hết. Đó có thể là khoảnh khắc tuyệt vọng cùng cực và nhận thức về thất bại của chính mình. Nhưng vào lúc đó thánh Phanxicô đã cầu nguyện: “Lạy Chúa của con, mọi lời ngợi khen thuộc về Chúa”. Thánh Phanxicô ca ngợi Thiên Chúa về tất cả mọi thứ, về tất cả những món quà của thiên nhiên, và ngay cả về cái chết, điều mà ngài can đảm gọi là “chị”.
Gương mẫu ngợi khen Thiên Chúa trong những lúc khó khăn của các thánh, của các Ki-tô hữu, của Chúa Giê-su, mở ra cho chúng ta những cánh cửa của một con đường rộng lớn đến với Chúa và thanh tẩy chúng ta. Lời cầu nguyện ngợi khen luôn thanh tẩy chúng ta.
Các thánh nhân tỏ cho chúng ta thấy rằng chúng ta luôn có thể ngợi khen Chúa, khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, bởi vì Thiên Chúa là người Bạn trung thành. Đây là nền tảng của lời ngợi khen: Thiên là người Bạn trung thành và tình yêu của Người không bao giờ cạn.
Nguồn: vaticannews.va/vi
Ngày 27.01.2021
Bài 22: Cầu nguyện với Thánh Kinh
Anh chị em thân mến,
Hôm nay tôi muốn tập trung vào lời cầu nguyện mà chúng ta có thể bắt đầu bằng một đoạn Kinh Thánh. Những lời Sách Thánh không được viết để bị giam cầm trên các mảnh giấy cói, giấy da hay giấy, nhưng để được đón nhận bởi một người cầu nguyện và làm cho chúng nảy mầm trong lòng người đọc. Sách Giáo lý khẳng định: “kinh nguyện phải đi đôi với việc đọc Thánh Kinh, để có sự đối thoại giữa Thiên Chúa và con người” (số 2653). Câu Kinh Thánh đó cũng được viết cho tôi, cách đây hàng hàng thế kỷ, để mang lời của Chúa đến cho tôi. Kinh nghiệm này xảy đến với mọi tín hữu: một đoạn Kinh Thánh, đã được nghe nhiều lần, bất ngờ, một ngày nào đó, nói với tôi và soi sáng cho hoàn cảnh mà tôi đang sống. Nhưng điều cần thiết là tôi, ngày hôm đó, có mặt trong cuộc hẹn với Lời đó. Mỗi ngày Chúa đi qua và gieo một hạt thóc vào trong mảnh đất đời sống của chúng ta. Chúng ta không biết hôm nay Chúa sẽ gặp thấy mảnh đất khô cằn, gai góc hay mảnh đất tốt làm cho hạt giống đó mọc lên (x. Mc 4,3-9). Để cho Sách Thánh trở thành Lời hằng sống của Thiên Chúa thì tùy thuộc nơi chúng ta, tùy vào việc chúng ta cầu nguyên, tùy vào tấm lòng cởi mở của chúng ta khi đến với Sách Thánh. Thiên Chúa liên tục đi qua Sách Thánh. Và ở đây tôi quay lại điều tôi đã nói tuần trước, điều mà Thánh Augustinô đã nói: “Tôi sợ Chúa khi Ngài đi qua”. Tại sao thánh nhân lại sợ? Thưa, thánh nhân rằng ngài sẽ không nghe lời của Chúa. Rằng thánh nhân sẽ không nhận ra mình thuộc về Chúa.
Chúng ta là “những nhà tạm” của Lời Chúa
Qua việc cầu nguyện, có một cuộc nhập thể mới của Lời xảy ra. Và chúng ta là “những nhà tạm” nơi lời của Thiên Chúa muốn được chào đón và được lưu giữ, để có thể viếng thăm thế giới. Đây là lý do tại sao chúng ta phải tiếp nhận Kinh Thánh mà không có những động cơ cá nhân, không lợi dụng nó. Người tín hữu không tìm trong Thánh Kinh sự ủng hộ quan điểm triết học và đạo đức của riêng mình, nhưng vì họ hy vọng một cuộc gặp gỡ; người tín hữu biết rằng lời Chúa đã được viết trong Chúa Thánh Thần, và do đó chúng phải được đón nhận và hiểu biết trong cùng Thánh Thần đó, để cuộc gặp gỡ có thể xảy ra.
Tôi cảm thấy hơi khó chịu khi nghe các Ki-tô hữu đọc Kinh Thánh như những con vẹt. Bạn có gặp Chúa với câu Kinh Thánh đó không? Đó không chỉ là vấn đề thuộc lòng nhưng là vấn đề ghi nhớ bằng con tim, điều đưa bạn đến cuộc gặp gỡ với Chúa. Lời đó, câu đó, đưa bạn đến gặp gỡ với Chúa.
Ân sủng và sức mạnh của Lời Chúa
Do đó chúng ta đọc Sách Thánh bởi vì Sách Thánh “đọc chúng ta”. Để có thể nhận ra chính mình trong đoạn sách này hay nhân vật kia, trong hoàn cảnh này hay hoàn cảnh kia, đó là một ân sủng. Kinh Thánh không được viết cho một nhân loại chung chung, nhưng cho chúng ta, những người nam và người nữ bằng xương bằng thịt, cho tôi. Và lời của Thiên Chúa, được Chúa Thánh Thần truyền vào chúng ta, khi được đón nhận với tấm lòng cởi mở, sẽ không để cho mọi sự vẫn như trước đó, nhưng thay đổi chúng. Đây là ân sủng và sức mạnh của Lời Chúa.
“Lectio divina”
Truyền thống Ki-tô giáo rất phong phú về kinh nghiệm và suy tư cầu nguyện với Sách Thánh. Đặc biệt, phương pháp “Lectio divina” đã được hình thành; nó xuất phát từ môi trường đan tu, nhưng bây giờ cũng được thực hành bởi các tín hữu thường xuyên tham gia các sinh hoạt giáo xứ.
Trước hết là đọc đoạn Kinh Thánh cách chăm chú: tôi muốn nói là đọc với sự “vâng phục” bản văn, để hiểu tự bản văn có ý nghĩa gì. Tiếp đến, là đối thoại với Sách Thánh, để những lời đó trở thành nguyên nhân cho việc suy niệm và cầu nguyện: luôn luôn bám chặt lấy bản văn, bắt đầu tự hỏi mình về điều bản văn “nói với chúng ta”. Đây là một bước rất tinh tế, chúng ta không được vội vã sa vào những cách giải thích chủ quan, nhưng chúng ta phải là một thành phần của cách thức sống động của Truyền thống, điều liên kết mỗi chúng ta với Sách Thánh. Bước cuối cùng của Lectio divina là chiêm niệm. Những lời nói và ý tưởng ở đây sẽ dẫn đến tình yêu, như giữa những người yêu nhau, đôi khi nhìn nhau trong im lặng. Văn bản Kinh thánh vẫn ở đó, nhưng giống như một tấm gương, giống như một bức ảnh để người ta chiêm niệm.
Lời Chúa là nguồn bình an
Qua việc cầu nguyện, Lời Chúa đến cư ngụ trong chúng ta và chúng ta ở trong Lời Chúa. Lời Chúa soi sáng những dự định tốt đẹp và củng cố các việc làm; ban cho chúng ta sức mạnh và sự an bình, và cả khi chúng ta gặp thử thách, Lời Chúa cũng ban cho chúng ta sự bình an. Trong những ngày bối rối khó hiểu, Lời Chúa đảm bảo cho trái tim có sự tự tin và tình yêu thương cốt yếu, bảo vệ nó khỏi sự tấn công của ma quỷ.
Các thánh lưu là bản sao của Kinh Thánh nhờ dấu ấn của Kinh Thánh trong cuộc đời các ngài
Như thế Lời Chúa “nhập thể” nơi người đón nhận nó trong kinh nguyện. Có một bản văn cổ nói đến trực giác rằng các Ki-tô hữu được đồng nhất hoàn toàn với Lời Chúa đến nỗi, dù cho tất cả Kinh Thánh trên thế giới bị đốt, thì bản sao của nó vẫn được lưu lại qua vết tích mà Kinh Thánh để lại trong cuộc đời các thánh.
Cuộc sống của Ki-tô hữu là một tác phẩm của sự vâng phục đồng thời của sự sáng tạo. Một Ki-tô hữu tốt phải vâng phục nhưng phải sáng tạo. Chúa Giêsu đã nói ở cuối một trong những dụ ngôn của Người: “Bất cứ kinh sư nào đã được học hỏi về Nước Trời, thì cũng giống như chủ nhà kia lấy ra từ trong kho tàng của mình cả cái mới lẫn cái cũ.” (Mt 13, 52). Sách Thánh là một kho tàng vô tận. Xin Chúa ban cho chúng ta, qua cầu nguyện, biết ngày càng rút ra từ kho tàng đó thêm nhiều điều quý giá.
Nguồn: vaticannews.va/vi
Ngày 03.02.2021
Bài 23: Cầu nguyện trong phụng vụ
Anh chị em thân mến,
Trong lịch sử Giáo hội, thường có một cám dỗ thực hành một Ki-tô giáo duy nội tâm, không nhận ra tầm quan trọng thiêng liêng của các nghi thức phụng vụ công cộng. Thông thường, khuynh hướng này cho rằng mình có sự thuần khiết hơn của một tôn giáo không phụ thuộc vào các nghi lễ bên ngoài, vốn bị xem là gánh nặng vô ích hoặc có hại. Trọng tâm của sự chỉ trích không phải là một hình thức nghi lễ cụ thể, hay một cách thức cử hành cụ thể nào, mà là chính phụng vụ.
Thật vậy, trong Giáo Hội, người ta có thể tìm thấy một số hình thức linh đạo không hòa nhập được cách thích hợp với thời điểm phụng vụ. Nhiều tín hữu, trong khi hăng hái tham dự các nghi lễ, đặc biệt là Thánh Lễ Chúa Nhật, lại kín múc nguồn dinh dưỡng cho đức tin và đời sống thiêng liêng của họ từ các hình thức đạo đức cá nhân.
Phụng vụ và cuộc sống
Trong những thập kỷ gần đây, Giáo hội đã thực hiện được nhiều tiến bộ liên quan đến đặc tính trung tâm của phụng vụ trong đời sống đức tin. Hiến chế Phụng vụ của Công đồng Vatican II trình bày một điểm then chốt trong cuộc hành trình lâu dài này. Nó tái khẳng định một cách toàn diện và cơ cấu tầm quan trọng của phụng vụ thánh đối với đời sống của người Kitô hữu, những người tìm thấy trong phụng vụ sự trung gian khách quan xuất phát từ thực tế rằng Chúa Giêsu Kitô không phải là một ý tưởng hay một tình cảm, mà là một Người sống, và Mầu nhiệm của Người là một sự kiện lịch sử.
Lời cầu nguyện của Kitô hữu nối kết với những cách diễn tả cụ thể của đức tin như Sách Thánh, các Bí tích, các nghi thức phụng vụ, cộng đoàn. Trong đời sống Ki-tô giáo, chúng ta không bỏ thể qua lãnh vực thể lý và vật chất bởi vì trong Chúa Giê-su Ki-tô nó đã trở thành con đường cứu độ. Chúng ta có thể nói rằng bây giờ chúng ta cầu nguyện bằng thân xác. Thân xác đi vào trong cầu nguyện.
Việc cầu nguyện dựa trên phụng vụ
Không có linh đạo Kitô giáo nào không bắt nguồn từ việc cử hành các mầu nhiệm thánh. Sách Giáo lý viết: ‘Sứ mạng của Chúa Kitô và của Chúa Thánh Thần là công bố, hiện thực và thông truyền mầu nhiệm cứu độ trong Phụng vụ của Hội Thánh; sứ vụ ấy được tiếp nối nơi tâm hồn người cầu nguyện’ (s. 2655). Bản thân phụng vụ không chỉ là lời cầu nguyện tự phát, mà là một điều gì đó còn hơn thế nữa, và nguyên thủy hơn: đó là một hành động hình thành toàn bộ kinh nghiệm Kitô giáo và do đó, hình thành cả lời cầu nguyện. Phụng vụ là một sự kiện, nó đang diễn ra, nó hiện diện, nó là cuộc gặp gỡ. Một cuộc gặp gỡ với Chúa Ki-tô. Chúa Kitô hiện diện trong Chúa Thánh Thần qua các dấu chỉ bí tích. Người Kitô hữu chúng ta cần phải tham dự vào các mầu nhiệm thánh. Một Kitô giáo không có phụng vụ là một Kitô giáo không có Chúa Kitô. Ngay cả trong nghi thức đơn giản nhất, chẳng hạn như nghi thức mà một số Ki-tô hữu đã cử hành và tiếp tục cử hành tại những nơi bị giam giữ, hoặc bí mật trong một ngôi nhà trong thời gian bị bách hại, Chúa Giê-su Ki-tô thực sự hiện diện và ban chính mình cho các tín hữu của Người.
Tham dự phụng vụ sốt sắng
Bởi bản chất, phụng vụ mời gọi chúng ta tham dự một cách sốt sắng, để chúng ta có thể nhận được ân sủng Chúa ban qua phụng vụ. Sách Giáo lý giải thích về điều này: “Cầu nguyện nội tâm hóa và đồng hóa với phụng vụ trong và sau khi cử hành” (sđd), Nhiều lời cầu nguyện của Ki-tô hữu không bắt nguồn từ phụng vụ, nhưng tất cả những lời cầu nguyện đó, nếu là của Ki-tô hữu, đều giả định là phụng vụ, tức là trung gian bí tích của Chúa Giêsu Kitô. Mỗi khi chúng ta cử hành một Bí tích Rửa tội, hoặc thánh hiến bánh và rượu trong Bí tích Thánh Thể, hoặc xức dầu thánh cho thân thể một người bệnh, thì Chúa Kitô ở đây! Chúa hiện diện giống như Người đã hiện diện khi chữa lành chi thể đau yếu của một người bệnh, hoặc khi trao ban di chúc của Người trong Bữa Tiệc Ly để cứu độ thế gian.
Cử hành phụng vụ
Lời cầu nguyện của người Kitô hữu làm cho sự hiện diện bí tích của Chúa Giêsu trở thành của mình. Những gì bên ngoài chúng ta trở thành một phần của chúng ta: phụng vụ diễn tả điều này ngay cả trong cử chỉ ăn uống rất tự nhiên. Thánh lễ không thể chỉ được ‘lắng nghe’, như thể chúng ta chỉ là khán giả của một điều gì đó trôi đi mà không có sự tham dự của chúng ta. Thánh lễ luôn được cử hành và không chỉ linh mục chủ sự Thánh lễ, nhưng tất cả Ki-tô hữu, những người sống Thánh lễ. Và trung tâm là Chúa Kitô! Tất cả chúng ta, trong sự đa dạng của các ân sủng và thừa tác vụ, tham gia vào hành động của Chúa, bởi vì Người là Nhân vật chính của phụng vụ.
Khi những Ki-tô hữu đầu tiên bắt đầu thờ phượng, họ đã làm điều đó bằng cách hiện thực hóa những việc làm và lời nói của Chúa Giê-su, với ánh sáng và quyền năng của Chúa Thánh Linh, để cuộc sống của họ, đạt được nhờ ân sủng đó, sẽ trở thành của lễ thiêng liêng dâng lên Thiên Chúa. Cách tiếp cận này là một ‘cuộc cách mạng’ thực sự. Thánh Phao-lô viết trong thư gửi tín hữu Rô-ma: ‘Thưa anh em, vì Thiên Chúa thương xót chúng ta, tôi khuyên nhủ anh em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa. Đó là cách thức xứng hợp để anh em thờ phượng Người’ (12,1). Cuộc sống được mời gọi để trở thành việc thờ phượng Thiên Chúa, nhưng điều này không thể xảy ra nếu không có cầu nguyện, đặc biệt là cầu nguyện trong phụng vụ.
Chớ gì ý nghĩ này giúp cho tất cả chúng ta khi tham dự Thánh lễ Chúa Nhật: Tôi đi cầu nguyện trong cộng đoàn, tôi đi cầu nguyện với Chúa Kitô đang hiện diện. Khi chúng ta cử hành một bí tích rửa tội, thì chính Chúa Ki-tô ở đó, hiện diện, làm phép rửa. Đây không phải là một ý tưởng, một cách nói. Chúa Kitô hiện diện và trong phụng vụ bạn cầu nguyện với Chúa Kitô bên cạnh bạn.
Nguồn: vaticannews.va/vi
Ngày 10.02.2021
Bài 24: Cầu nguyện trong đời sống thường ngày
Anh chị em thân mến,
Trong bài giáo lý trước, chúng ta đã thấy việc cầu nguyện Ki-tô giáo được “neo chặt” vào Phụng vụ như thế nào. Hôm nay chúng ta sẽ giải thích rõ cách thế Phụng vụ luôn đi vào cuộc sống hàng ngày: trên đường phố, trong văn phòng, trên các phương tiện giao thông … Và ở đó nó tiếp tục cuộc đối thoại với Thiên Chúa: người cầu nguyện giống như người đang yêu, luôn mang theo người yêu của mình trong tim dù họ đi bất cứ nơi đâu.
Niềm hy vọng không thể bị dập tắt
Thật vậy, mọi sự trở thành một phần trong cuộc đối thoại với Thiên Chúa: mọi niềm vui đều trở thành lý do để ca ngợi, mọi thử thách là cơ hội để cầu xin sự trợ giúp. Lời cầu nguyện luôn sống động trong cuộc sống, như than hồng, ngay cả khi miệng không nói nhưng trái tim nói. Mọi ý nghĩ, ngay cả những ý nghĩ có vẻ là “phàm tục”, đều có thể thấm nhuần lời cầu nguyện.
Thậm chí trong trí thông minh của con người cũng có một khía cạnh cầu nguyện; trên thực tế, cầu nguyện là một cửa sổ nhìn vào mầu nhiệm: nó chiếu sáng một vài bước trước mặt chúng ta và sau đó mở ra với toàn bộ thực tế đi trước và vượt trên nó. Mầu nhiệm này không có một khuôn mặt bất an hay lo lắng: sự hiểu biết về Chúa Kitô khiến chúng ta tin chắc rằng bất cứ điều gì đôi mắt và con mắt trí tuệ của chúng ta không thể nhìn thấy, thì không phải là không có gì cả, nhưng có Đấng chờ đợi chúng ta, có ân sủng vô biên. Kinh nguyện Ki-tô giáo gieo vào lòng con người một niềm hy vọng không thể bị dập tắt: bất cứ kinh nghiệm nào chúng ta gặp thấy trên hành trình của chúng ta, tình yêu của Thiên Chúa có thể biến nó thành điều tốt.
Chúng ta gặp được Chúa trong hiện tại, “hôm nay”
Về vấn đề này, Sách Giáo lý cho biết: “Chúng ta học biết cầu nguyện vào một số thời gian nhất định, bằng cách lắng nghe Lời Chúa và tham dự mầu nhiệm Vượt Qua của Người; Người còn ban Thánh Thần để giúp chúng ta cầu nguyện trong mọi lúc, trong mọi biến cố của cuộc sống hằng ngày… Thời gian là của Chúa Cha; chúng ta gặp được Người trong hiện tại, không phải hôm qua hay ngày mai, nhưng chính hôm nay” (s. 2659).
Không có ngày nào tuyệt vời hơn ngày hôm nay chúng ta đang sống. Chúng ta đang sống nhưng luôn nghĩ về tương lai, nhưng không đón lấy ngày hôm nay khi nó đến; chúng ta sống trong tưởng tượng, không biết cụ thể thực tại. Hôm nay là thực tại, là cụ thể. Và chúng ta cầu nguyện hôm nay. Chúa Giê-su đến gặp chúng ta hôm nay. Và chính lời cầu nguyện biến ngày hôm nay thành ân sủng, hay đúng hơn, nó biến đổi chúng ta: nó xoa dịu sự giận dữ, duy trì tình yêu thương, gia tăng niềm vui, truyền sức mạnh để tha thứ. Đôi khi tưởng chừng như không còn là chúng ta đang sống, nhưng ân sủng đó sống và hoạt động trong chúng ta qua cầu nguyện. Khi bạn có tư tưởng giận dữ, không vui, khiến bạn cay đắng, hãy dừng lại. Và bạn hãy thưa với Chúa: “Chúa ở đâu? Và con đang đi dâu?” Và chính Chúa ở đó, Chúa sẽ cho bạn lời khuyên đúng đắn để tiếp bước mà không gặm nhấm sự cay đắng tiêu cực. Lời cầu nguyện luôn đưa bạn tiến bước.
Cầu nguyện giúp đón nhận mỗi ngày như cơ hội gặp Chúa
Mỗi ngày bắt đầu, nếu được đón nhận trong cầu nguyện, được đi kèm với lòng can đảm, để những vấn đề chúng ta phải đối mặt không còn là những trở ngại cho hạnh phúc của chúng ta, nhưng là lời kêu gọi từ Thiên Chúa, là cơ hội để chúng ta gặp gỡ Người. Khi một người được Chúa đồng hành thì sẽ cảm thấy can đảm hơn, tự do và hạnh phúc hơn.
Lời cầu nguyện thể hiện lòng trắc ẩn của Thiên Chúa
Vì vậy, chúng ta hãy luôn cầu nguyện cho mọi người. Chúng ta hãy cầu nguyện cho những người thân yêu của chúng ta, nhưng cũng cầu nguyện cho những người chúng ta không quen biết. Chúng ta hãy cầu nguyện cho cả kẻ thù của mình, như Kinh Thánh thường mời gọi chúng ta. Lời cầu nguyện hướng chúng ta đến một tình yêu tràn đầy. Trên hết, chúng ta hãy cầu nguyện cho những người bất hạnh, cho những người đang than khóc trong cô đơn và tuyệt vọng để có thể có ai đó yêu thương họ. Cầu nguyện tạo nên những điều kỳ diệu; và khi ấy, những người nghèo, nhờ ân sủng của Thiên Chúa, hiểu rằng dù trong hoàn cảnh bấp bênh của họ, lời cầu nguyện của một Ki-tô hữu thể hiện lòng trắc ẩn của Chúa Giê-su: thật vậy, Người âu yếm nhìn đám đông mệt mỏi và lạc lõng như bầy chiên không có người chăn (x. Mc 6, 34). Đức Thánh Cha nhắc đừng quên rằng Chúa là Chúa từ bị, gần gũi và dịu dàng.
Cầu nguyện giúp chúng ta yêu thương tha nhân
Cầu nguyện giúp chúng ta yêu thương người khác, bất chấp lỗi lầm và tội lỗi của họ. Con người luôn quan trọng hơn những hành động của họ và Chúa Giê-su đã không phán xét thế giới nhưng cứu chuộc nó.
Những người luôn phán xét, lên án, thì cuộc sống của họ thật tồi tê, không hạnh phúc. Do đó hãy mở rộng lòng, tha thứ, biện minh cho người khác, thông hiểu, gần gũi với người khác, có lòng trắc ẩn, có sự dịu dàng: giống như Chúa Giê-su.
Yêu thế giới theo cách dịu dàng của Chúa
Chúng ta cần yêu thương mỗi người và mọi người và khi cầu nguyện chúng ta nhớ rằng tất cả chúng ta đều là tội nhân và đồng thời được Thiên Chúa yêu thương từng người một. Yêu thế giới này theo cách này, yêu thương nó bằng sự dịu dàng, chúng ta sẽ khám phá ra rằng mỗi ngày và mọi thứ đều ẩn chứa trong mình một mảnh vỡ của mầu nhiệm Thiên Chúa.
Vương quốc công lý và hòa bình của Thiên Chúa
Sách Giáo lý còn viết: “Cầu nguyện trong mọi biến cố của cuộc sống hằng ngày, là một trong những điều bí ẩn của Nước Trời được mặc khải cho nhũng kẻ bé mọn, những người tôi tớ của Đức Ki-tô, những người nghèo theo các Mối Phúc. Cầu nguyện cho Nước công lý và bình an tác động vào diễn tiến của lịch sử, là việc chính đáng và tốt đẹp; nhưng phải đem những hoàn cảnh bình thường của cuộc sống hằng ngày vào kinh nguyện. Mọi hình thức cầu nguyện đều có thể là thứ men cần thiết được Chúa nói đến trong dụ ngôn về Nước Trời (Lc 13, 20-21).” (s. 2660).
Con người như hơi thở, như ngọn cỏ (x. Tv 144,4; 103,15) Triết gia Pascal đã viết: “Không cần cả vũ trụ cầm vũ khí để đè nát nó; một hơi nóng, một giọt nước cũng đủ giết chết nó.” Chúng ta yếu đuối, nhưng chúng ta biết cách cầu nguyện: đây là phẩm giá cao nhất của chúng ta. Và khi một lời cầu nguyện theo điều Chúa Giê-su muốn, lời cầu nguyện đó đạt được những điều kỳ diệu.
Nguồn: vaticannews.va/vi/
Ngày 03.03.2021
Bài 25: Cầu nguyện và Chúa Ba Ngôi (phần I)
Anh chị em thân mến,
Trong hành trình dạy giáo lý về cầu nguyện của chúng ta, hôm nay và tuần tới, chúng ta sẽ thấy, nhờ Chúa Giêsu mà việc cầu nguyện đưa chúng ta đến với Chúa Ba Ngôi, đến với đại dương bao la của Thiên Chúa, Đấng là Tình yêu. Chính Chúa Giêsu đã mở cửa Thiên đàng cho chúng ta và hướng dẫn chúng ta đi vào tương quan với Thiên Chúa. Người đã làm điều này khi đưa chúng ta đi vào mối liên hệ với Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Đây là điều mà thánh Gioan tông đồ khẳng định ở phần mở đầu của Tin Mừng: “Thiên Chúa, chưa bao giờ có ai thấy cả; nhưng Con Một vốn là Thiên Chúa và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết ” (1,18). Chúa Giêsu đã mặc khải cho chúng ta căn tính của Thiên Chúa: Cha, Con và Thánh Thần.
Chúng ta thực sự không biết phải cầu nguyện như thế nào: lời nào, tâm tình nào và ngôn ngữ nào cho phù hợp với Chúa. Trong lời các môn đệ cầu xin Thầy mà chúng ta thường nhắc lại trong loạt bài giáo lý này, có cố gắng mò mẫm, lặp đi lặp lại của con người, thường không thành công, để hướng về Đấng Tạo hóa: “Lạy Chúa, xin dạy chúng con cầu nguyện” (Lc 11,1).
Sự nghèo hèn của chúng ta trước Thiên Chúa
Không phải tất cả các lời cầu nguyện đều giống nhau, và không phải tất cả đều thích hợp: chính Kinh Thánh cho thấy nhiều lời cầu nguyện bị từ chối, có kết quả tiêu cực. Có thể đôi khi Thiên Chúa không hài lòng với những lời cầu nguyện của chúng ta và chúng ta thậm chí không nhận biết điều đó. Thiên Chúa nhìn vào đôi bàn tay của những người cầu nguyện: để làm cho những đôi tay trở nên trong sạch thì không cần phải rửa; nhưng đúng hơn là cần phải xa tránh khỏi những việc làm xấu xa. Thánh Phanxicô đã cầu nguyện: “Không có người nào xứng đáng kêu cầu Danh Ngài” (Bài ca anh mặt trời).
Có lẽ sự thừa nhận cảm động nhất về sự nghèo hèn trong lời cầu nguyện của chúng ta là lời đã xuất hiện trên môi miệng của viên đại đội trưởng La Mã, một ngày nọ đã cầu xin Chúa Giêsu chữa lành cho người đầy tớ bị bệnh của mình (x. Mt 8, 5-13). Ông ta cảm thấy mình hoàn toàn không xứng đáng: ông không phải là người Do Thái, ông là một sĩ quan trong đội quân chiếm đóng, bị ghét bỏ. Nhưng chính sự quan tâm đến người đầy tớ khiến ông dám nói: “Thưa Ngài, tôi chẳng đáng Ngài vào nhà tôi, nhưng xin Ngài chỉ nói một lời là đầy tớ tôi được khỏi bệnh” (c. 8). Đó là cụm từ mà chúng ta cũng lặp lại trong mỗi phụng vụ Thánh Thể. Đối thoại với Thiên Chúa là một ân sủng: chúng ta không xứng đáng làm điều đó, chúng ta không có quyền để đòi, chúng ta “bất toàn” với mọi lời nói và mọi ý nghĩ… Nhưng Chúa Giêsu là cánh cửa đưa chúng ta đến đối thoại với Thiên Chúa.
Một Thiên Chúa yêu thương nhân loại
Tại sao con người cần được Thiên Chúa yêu thương? Không có lý do rõ ràng, không có sự tương xứng … Nó quá không tương xứng đến mức hầu hết các thần thoại không nói về khả năng một vị thần quan tâm đến các vấn đề của con người; ngược lại, những điều này bị xem là gây khó chịu và phiền phức, hoàn toàn không đáng kể. Chúng ta hãy nhớ lời Chúa Giêsu nói với Dân Người, được nhắc lại trong sách Đệ Nhị luật: “Hãy nghĩ xem có dân tộc nào trong các dân lân cận của các người, lân cận với họ, như các ngươi có Ta ở gần các người?” Sự gần gũi này của Thiên Chúa chính là sự mặc khải!
Một số triết gia nói rằng Thượng đế chỉ có thể nghĩ đến chính mình; có chăng là chính con người chúng ta cố gắng thuyết phục vị thần và làm ngài hài lòng. Từ đó, bổn phận “thờ phượng”, với những cuộc rước tế tự và sùng kính được dâng cúng liên tục để được ơn trong mắt của một vị thần câm lặng và thờ ơ. Chỉ có Chúa Giêsu, chỉ có mặc khải của Thiên Chúa với ông Môsê, khi Người mặc khải chính mình, chỉ có Kinh Thánh mở ra cho chúng ta con đường đối thoại với Thiên Chúa.
Nhờ Chúa Giêsu chúng ta hiều được tình yêu của Thiên Chúa
Một Thiên Chúa yêu thương nhân loại: chúng ta sẽ không bao giờ có can đảm để tin vào Người nếu chúng ta không biết Chúa Giêsu. Việc nhận biết Chúa Giêsu giúp chúng ta hiểu điều này. Điều chúng ta thấy khắc họa trong dụ ngôn người cha thương xót, hay trong dụ ngôn người mục tử đi tìm con chiên lạc (x. Lc 15) là một điều khó hiểu. Chúng ta sẽ không thể hình dung những câu chuyện như vậy, thậm chí không thể hiểu chúng nếu chúng ta đã không gặp Chúa Giêsu. Thiên Chúa nào lại chấp nhận chết vì con người? Thiên Chúa nào luôn yêu thương và kiên nhẫn, mà không đòi được yêu lại? Thiên Chúa nào chấp nhận sự vô cùng, vô ơn của một người con trước đó xin chia gia sản và bỏ nhà đi phung phí mọi thứ? (x. Lc 15, 12-13).
Chính Chúa Giêsu mặc khải trái tim Thiên Chúa. Như thế, bằng cuộc đời của mình, Chúa Giêsu nói cho chúng ta biết Thiên Chúa là người Cha như thế nào. Không có người cha nào như Người. Tình Phụ tử chính là sự gần gũi, cảm thông và dịu dàng. Chúng ta đừng quên ba từ: gần gũi, cảm thông và dịu dàng, là cách thức của Thiên Chúa. Đây là cách diễn tả tình Phụ tử của Người đối với chúng ta. Thật không dễ để chúng ta, đứng từ xa, tưởng tượng tình yêu tràn đầy nơi Ba Ngôi Chí Thánh, và chiều sâu của lòng nhân từ hỗ tương giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Các ảnh vẽ của Đông phương cho chúng ta một thoáng cảm nhận về mầu nhiệm này, điều là nguồn gốc và niềm vui của toàn vũ trụ.
Cầu nguyện là ơn của đức tin
Trên hết, chúng ta không thể tin rằng tình yêu thánh thiêng này sẽ mở rộng, đến với bến bờ nhân loại của chúng ta: chúng ta là những người đón nhận một tình yêu không gì sánh bằng trên trần gian. Giáo lý Công giáo giải thích: “Nhân tính thánh thiện của Đức Giêsu chính là con đường, nhờ đó Chúa Thánh Thần dạy chúng ta cầu nguyện với Thiên Chúa Cha của chúng ta” (số 2664). Đó là ân sủng của đức tin chúng ta. Thực sự chúng ta không thể hy vọng vào một ơn gọi cao cả hơn: Nhân tính của Chúa Giêsu đã làm cho chúng ta có được sự sống của Chúa Ba Ngôi.
Nguồn: vaticannews.va/vi
Ngày 17.03.2021
Bài 26: Cầu nguyện và Chúa Ba Ngôi (phần II)
Anh chị em thân mến,
Hôm nay chúng ta sẽ hoàn thành bài giáo lý về cầu nguyện trong mối tương quan với Chúa Ba Ngôi, đặc biệt là với Chúa Thánh Thần.
Quà tặng đầu tiên được ban cho mỗi cuộc sống của Kitô hữu chính là Chúa Thánh Thần. Nó không phải là một trong nhiều quà tặng, mà là quà tặng cơ bản. Không có Chúa Thánh Thần thì không có tương quan với Chúa Kitô và với Chúa Cha. Vì Chúa Thánh Thần mở lòng chúng ta ra với sự hiện diện của Thiên Chúa và lôi cuốn nó vào “cơn lốc” tình yêu là chính trái tim của Thiên Chúa. Chúng ta không chỉ là khách trọ và lữ khách trong hành trình trên mặt đất này, chúng ta còn là khách và hành hương trong Chúa Ba Ngôi. Chúng ta giống như tổ phụ Abraham, một ngày kia khi đón ba người đi đường vào lều của mình, đã gặp Thiên Chúa. Nếu chúng ta có thể cầu khẩn Chúa và gọi Người “Abba” – nghĩa là lạy Cha, là bởi vì Chúa Thánh Thần cư ngụ trong chúng ta; chính Người biến đổi chúng ta một cách sâu sắc và làm cho chúng ta cảm nghiệm được niềm vui cảm động được Thiên Chúa yêu thương như những người con đích thực của Người.
Chúa Thánh Thần làm cho Chúa Giêsu hiện diện với chúng ta
Sách Giáo Lý Công giáo số 2670 viết: “Mỗi lần chúng ta muốn cầu nguyện với Chúa Giêsu, chính Chúa Thánh Thần dùng ơn tiền sủng đưa chúng ta vào kinh nguyện. Chúa Thánh Thần dạy chúng ta biết cầu nguyện bằng cách nhắc ta nhớ đến Chúa Kitô. Vậy tại sao ta không cầu xin chính Chúa Thánh Thần? Vì thế, Hội Thánh kêu gọi chúng ta cầu xin Chúa Thánh Thần mỗi ngày, nhất là khi khởi sự và kết thúc mỗi việc quan trọng”. Đây là hoạt động của Thánh Thần trong chúng ta. Người “nhắc nhở” chúng ta về Chúa Giêsu và làm cho Chúa Giêsu hiện diện với chúng ta, để Người không bị giảm thiểu thành một nhân vật của quá khứ. Nếu Chúa Giêsu Kitô chỉ thuộc về một thời gian rất xa xôi, chúng ta sẽ cô đơn và lạc lõng giữa thế giới. Nhưng trong Chúa Thánh Thần, mọi sự đều sống động: khả năng gặp gỡ Chúa Kitô được mở ra cho các Kitô hữu ở mọi nơi và mọi lúc. Người không ở đâu xa, Người ở với chúng ta: Người vẫn giáo dục các môn đệ bằng cách biến đổi tâm hồn họ, như Người đã làm với thánh Phêrô, với thánh Phaolô, với thánh Maria Mađalêna.
Kinh nghiệm của những người cầu nguyện
Đó là kinh nghiệm mà nhiều người cầu nguyện đã trải qua: những người nam và người nữ mà Chúa Thánh Thần đã tạo nên theo “thước đo” của Chúa Kitô, trong lòng thương xót, phục vụ, cầu nguyện … Có thể gặp gỡ những người như thế là một ân sủng: chúng ta nhận ra rằng nơi họ có một cuộc sống khác; họ nhìn vượt trên sự vật. Đó không chỉ là kinh nghiệm của các đan sĩ, các ẩn sĩ; nhưng cũng của những người bình thường, những người đã dệt nên một lịch sử đối thoại lâu dài với Thiên Chúa, trong những lúc đấu tranh nội tâm, để thanh luyện đức tin. Những chứng tá khiêm nhường này đã tìm kiếm Chúa trong Tin Mừng, trong Thánh Thể họ lãnh nhận và tôn kính, nơi khuôn mặt của người anh chị em gặp khó khăn, và họ gìn giữ sự hiện diện của Người như một ngọn lửa âm thầm.
Giữ cho ngọn lửa tình yêu Thiên Chúa luôn cháy sáng
Nhiệm vụ đầu tiên của Kitô hữu chính là giữ cho ngọn lửa mà Chúa Giêsu đã mang xuống trần gian (Lc 12,49), tức là Tình Yêu Thiên Chúa, Chúa Thánh Thần, luôn cháy sáng. Không có ngọn lửa của Thần Khí, những lời tiên tri sẽ bị dập tắt, nỗi buồn thay cho niềm vui, thói quen thay thế tình yêu, việc phục vụ trở thành nô lệ. Hãy nghĩ đến hình ảnh ngọn đèn thắp sáng cạnh Nhà Tạm, nơi lưu giữ Thánh Thể. Ngay cả khi nhà thờ trống vắng và bóng tối buông xuống, ngay cả khi nhà thờ đóng cửa, ngọn đèn đó vẫn sáng, vẫn tiếp tục cháy: không ai nhìn thấy nó, nhưng nó vẫn cháy trước mặt Chúa.
Chúa Thánh Thần viết nên lịch sử của Giáo Hội và của thế giới
Sách Giáo lý Công giáo số 2672 viết: “Khi chúng ta được Thiên Chúa xức dầu bằng Thánh Thần, Chúa Thánh Thần thấm nhập toàn thể con người chúng ta, trở thành người Thầy nội tâm dạy cho ta biết cầu nguyện. Người là tác giả truyền thống kinh nguyện sống động của Hội Thánh. Có bao nhiêu người cầu nguyện thì cũng có bấy nhiêu cách cầu nguyện, nhưng chỉ có một Thánh Thần, Đấng tác động trong mọi người và cùng với mọi nguời. Được hiệp thông nhờ Chúa Thánh Thần, khi Kitô hữu cầu nguyện, họ cầu nguyện trong Hội Thánh”.
Do đó, chính Thánh Thần là Đấng viết nên lịch sử của Giáo Hội và của thế giới. Chúng ta là những trang giấy mở, sẵn sàng để Người viết vào. Và trong mỗi người chúng ta, Chúa Thánh Thần sáng tác các tác phẩm nguyên bản, bởi vì không bao giờ có một Kitô hữu nào hoàn toàn giống với một Kitô hữu khác. Trong lãnh vực vô biên của sự thánh thiện, Thiên Chúa duy nhất, Ba Ngôi Tình Yêu, cho phép muôn vàn nhân chứng nở rộ: tất cả đều bình đẳng về phẩm giá, nhưng cũng độc nhất về vẻ đẹp mà Chúa Thánh Thần muốn làm phát sinh nơi mỗi người, mà lòng thương xót của Thiên Chúa đã biến thành con cái của Người.
Cầu nguyện cho Paraguay
Kết thúc bài giáo lý, Đức Thánh Cha bày tỏ lo ngại về tình hình ở Paraguay. Ngài xin Đức Mẹ Phép lạ ở Caacupé chuyển cầu, cầu xin Chúa Giêsu, Hoàng tử Bình an, cho nước này có thể tìm ra một cách đối thoại chân thành để tìm ra giải pháp thỏa đáng cho những khó khăn hiện tại, và nhờ đó cùng nhau xây dựng nền hòa bình đã mong đợi từ lâu. Ngài nói:
“Chúng ta hãy nhớ rằng, bạo lực luôn tự hủy diệt chính mình. Chúng ta không thu được gì từ nó, nhưng mất đi rất nhiều.”
Cầu nguyện cho Myanmar
Một lần nữa Đức Thánh Cha bày tỏ sự đau buồn và cảm thấy cần khẩn cấp nói lên tình cảnh bi đát ở Myanmar, nơi nhiều người, đặc biệt là những người trẻ, đang hy sinh mạng sống để mang lại tự do cho quê hương của họ. Đức Thánh Cha nói:
“Tôi cũng quỳ gối trên các con đường của Myanmar và nói: hãy dừng bạo lực! Tôi cũng dang tay ra và nói: chớ gì đối thoại sẽ vượt thắng!”
Thánh Giuse – Đấng Công chính và Khôn ngoan
Cuối buổi tiếp kiến chung, Đức Thánh Cha nhắc đến lễ trọng thánh Giuse vào thứ Sáu 19/3 và cũng là ngày bắt đầu Năm Gia đình Niềm vui của Tình Yêu.
Trong lời chào tín hữu nói tiếng Ý, Đức Thánh Cha mời gọi: “Anh chị em hãy giống như thánh nhân, sẵn sàng hiểu và thực hành Tin Mừng. Trong cuộc sống, trong công việc, trong gia đình, trong những lúc vui mừng và những lúc khổ đau, thánh Cả Giuse đã không ngừng tìm kiếm và yêu mến Chúa, xứng đáng được Thánh Kinh ca tụng là người Công chính và Khôn ngoan. Hãy luôn kêu cầu ngài, đặc biệt là trong những khoảnh khắc khó khăn mà anh chị em có thể gặp phải.”
Ngỏ lời với các tín hữu nói tiếng Ba Lan, Đức Thánh Cha nói: “Xin Mẹ Maria, Nữ vương của Ba Lan, ban cho cho các gia đình có được cái nhìn của Phúc âm về hôn nhân, trong sự hiểu biết lẫn nhau và tôn trọng sự sống con người.” Đức Thánh Cha cũng chúc phúc cho tất cả những người sẽ tham gia vào các sáng kiến được thực hiện nhân dịp kỷ niệm Năm Gia đình Niềm vui của Tình Yêu.
Nguồn: vaticannews.va/vi
Ngày 24.03.2021
Bài 27: Cầu nguyện trong sự hiệp thông với Đức Maria
Anh chị em thân mến,
Hôm nay, bài giáo lý được dành để cầu nguyện trong sự hiệp thông với Đức Maria. Nó diễn ra chính xác vào Lễ Vọng Lễ Truyền Tin. Chúng ta biết rằng con đường chính của việc cầu nguyện Kitô giáo là nhân tính của Chúa Giêsu. Nếu Ngôi Lời không nhập thể và cho chúng ta được trở thành con cái Thiên Chúa khi tham dự vào tương quan Cha Con của Người với Chúa Cha, thì sự tin tưởng trong lời cầu nguyện Kitô giáo sẽ là vô nghĩa.
Vai trò trung tâm của Chúa Kitô trong việc cầu nguyện của Kitô giáo
Chúa là Đấng Trung gian, là cầu nối mà qua đó chúng ta đến với Chúa Cha (xem GLCG 2674). Chúa là Đấng Cứu Độ duy nhất: không có những người đồng cứu độ cùng với Chúa. Người là Đấng Trung gian tuyệt đối. Mỗi kinh nguyện chúng ta dâng lên Thiên Chúa nhờ Chúa Kitô, với Chúa Kitô và trong Chúa Kitô và được thực hiện nhờ sự chuyển cầu của Người. Chúa Thánh Thần mở rộng sự trung gian của Chúa Kitô qua mọi thời và mọi nơi: không có danh nào khác mà nhờ đó chúng ta có thể được cứu độ. (xem Cv 4,12). Chúa Giêsu Kitô là Đấng Trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và con người.
Nhờ sự trung gian duy nhất của Chúa Kitô, những danh khác mà các Kitô hữu cầu khẩn khi cầu nguyện và sùng kính được có ý nghĩa và giá trị, trên hết là danh Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Chúa Giêsu. Mẹ có một vị trí đặc biệt trong đời sống của các Kitô hữu, và do đó, cả trong lời cầu nguyện của họ, bởi vì Mẹ là Mẹ của Chúa Giêsu.
Odigitria, Đấng chỉ đường đến với Chúa Giêsu
Truyền thống của các Giáo hội Đông phương thường miêu tả Mẹ Maria bằng từ tiếng Hy Lạp Odigitria, “người chỉ đường đến với Chúa Giêsu Kitô, Con của Mẹ”. Ở đây, tôi nghĩ đến bức họa cổ Odigitria tại nhà thờ chính tòa Bari ở miền nam nước Ý. Bức họa mô tả Đức Mẹ bế Chúa Giêsu mình trần; sự trần trụi đó cho thấy Chúa Giêsu, một con người, sinh bởi Đức Maria, là Đấng Trung gian. Và Đức Mẹ chỉ cho thấy Đấng Trung gian: Mẹ là Odigitria.
Mẹ Maria: nữ tỳ khiêm hạ của Chúa Giêsu
Tuy Mẹ Maria hiện diện trong khắp các biểu tượng của Kitô giáo, đôi khi rất nổi bật, nhưng luôn liên quan đến Con của Mẹ và nối kết với Người. Đôi tay, đôi mắt, cách ứng xử của Mẹ là một “bài giáo lý” sống động, luôn chỉ ra bản lề, trung tâm: đó là Chúa Giêsu. Đức Maria hoàn toàn hướng về Người (xem GLCG 2674), đến mức chúng ta có thể nói rằng Mẹ giống như một môn đệ của Chúa hơn là một người Mẹ. Trong tiệc cưới Cana Mẹ đã bảo: “hãy làm theo lời Người bảo”. Mẹ luôn luôn chỉ cho thấy Chúa Kitô.; Mẹ là môn đệ đầu tiên.
Đây là vai trò mà Mẹ Maria đã hoàn thành trong suốt cuộc đời trần thế của Mẹ và Mẹ luôn luôn giữ vai trò này: là nữ tỳ khiêm hạ của Chúa, không có gì khác hơn. Tại một thời điểm nào đó trong các sách Phúc âm, Mẹ gần như biến mất; nhưng rồi Mẹ lại xuất hiện vào những thời khắc quan trọng hơn, chẳng hạn như tại Cana, khi Con Mẹ, nhờ sự can thiệp quan tâm của Mẹ, thực hiện “dấu lạ” đầu tiên của Người (Ga 2,1-12), và sau đó, dưới chân thập giá trên đồi Golgotha.
Dưới sự che chở của Mẹ
Tình mẫu tử của Mẹ Maria được Chúa Giêsu mở rộng cho toàn thể Giáo hội khi Người giao phó Mẹ cho môn đệ yêu quý của Người, ngay trước khi hy sinh trên Thánh giá. Kể từ khi đó, tất cả chúng ta đã được quy tụ dưới áo choàng của Mẹ, như được mô tả trong một số bức bích họa hoặc tranh ảnh thời Trung cổ.
Câu tiền xướng bằng tiếng Latinh – sub tuum praesidium confugimus, sancta Dei Genitrix: Chúng con trông cậy rất thánh Đức Mẹ Chúa Trời cho thấy Đức Mẹ che chở, như người Mẹ, đấng mà Chúa Giêsu đã phó thác cho chúng ta, tất cả chúng ta; nhưng như một người Mẹ, không phải như nữ thần, không phải như người đồng cứu chuộc. Lòng đạo đức Kitô giáo luôn dành cho mẹ những danh hiệu đẹp đẽ, như người con đối với người mẹ: người con nói với người mẹ mình yêu quý bao điều tốt đẹp! Nhưng chúng ta hãy cẩn thận: những điều Giáo hội, các thánh nói về Mẹ không loại bỏ Chúa Giêsu là Đấng cứu độ duy nhất. Ngài là Đấng Cứu Chuộc duy nhất.
Mẹ ở bên chúng ta trong giờ lâm tử
Từ tình cảm của người con, chúng ta cầu nguyện với Mẹ bằng một số cách diễn đạt trực tiếp với Mẹ, được trình bày trong các sách Phúc âm: “đầy ơn phúc”, “được chúc phúc giữa các phụ nữ” (xem GLCG 2676 tt.). Tước hiệu “Theotokos”, “Mẹ Thiên Chúa”, được Công đồng Êphêsô nhìn nhận, cũng sớm được thêm vào kinh Kính Mừng. Và, giống như điều xảy ra trong Kinh Lạy Cha, sau lời ngợi khen, chúng ta thêm lời khẩn cầu: chúng ta cầu xin Mẹ cầu nguyện cho chúng ta là những kẻ tội lỗi, để Mẹ cầu bầu với sự dịu dàng của Mẹ, “bây giờ và trong giờ lâm tử của chúng ta”. Giờ đây, trong những tình huống cụ thể của cuộc sống, và trong giây phút cuối cùng, để Mẹ đồng hành với chúng ta – như là người Mẹ, người môn đệ đầu tiên – trong hành trình dẫn đến sự sống vĩnh cửu.
Mẹ Maria luôn hiện diện bên giường bệnh của những người con rời xa cõi đời này. Nếu ai đó thấy mình đơn độc và bị bỏ rơi, thì Mẹ là người Mẹ, Mẹ đang ở gần, như Mẹ đã ở cạnh Con Mẹ khi mọi người đã bỏ rơi Người.
Trong đại dịch Covid 19, khi nhiều người qua đời đơn độc trong các bệnh viện vì tình trạng cách ly xã hội, Mẹ Maria đã hiện diện, gần gũi với những con người không may kết thúc cuộc hành trình trần thế trong tình trạng bị cô lập, không có sự an ủi gần gũi của những người thân yêu. Mẹ Maria luôn ở đó, bên cạnh chúng ta, với tình mẫu tử dịu dàng của Mẹ.
Mẹ luôn lắng nghe lời cầu xin của chúng ta
Những lời cầu nguyện với Mẹ không phải là vô ích. Người phụ nữ “xin vâng”, người đã sẵn sàng đón nhận lời mời của thiên thần, cũng đáp lại lời khẩn cầu của chúng ta, lắng nghe tiếng nói của chúng ta, ngay cả những tiếng nói vẫn giữ chặt trong lòng, không có sức mạnh để bộc phát ra nhưng Thiên Chúa biết rõ hơn chúng ta. Mẹ lắng nghe chúng như một người Mẹ.
Giống như và hơn bất kỳ người mẹ tốt lành nào, Mẹ Maria bảo vệ chúng ta trong nguy hiểm, Mẹ quan tâm đến chúng ta, ngay cả khi chúng ta bị những lo lắng của mình lấn át và lạc hướng trong cuộc hành trình, và chúng ta không chỉ gây nguy hiểm cho sức khỏe nhưng cả ơn cứu độ của chúng ta. Mẹ Maria ở đó, cầu nguyện cho chúng ta, cầu nguyện cho những người không cầu nguyện. Để cầu nguyện với chúng tôi. Tại sao? Vì Mẹ là Mẹ của chúng ta.
Nguồn: vaticannews.va/vi
Ngày 07.04.2021
Bài 28: Cầu nguyện trong sự hiệp thông với các thánh
Anh chị em thân mến,
Hôm nay, tôi muốn suy tư về mối liên hệ giữa lời cầu nguyện và sự hiệp thông của các thánh. Thực ra, khi chúng ta cầu nguyện, chúng ta không bao giờ cầu nguyện một mình: ngay cả khi chúng ta không nghĩ về điều đó, chúng ta vẫn đắm mình trong dòng sông vĩ đại của những lời cầu khẩn đi trước chúng ta và sẽ đến sau chúng ta.
Trong những lời cầu nguyện mà chúng ta tìm thấy trong Kinh thánh, thường vang lên trong phụng vụ, chúng ta tìm thấy những câu chuyện cổ xưa, những cuộc giải thoát kỳ diệu, những cuộc trục xuất và lưu đày đau buồn, những cuộc trở về tràn đầy cảm xúc, những lời ca tụng vang lên trước những kỳ quan của tạo vật… Và như thế, những tiếng nói này được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, trong sự đan xen liên tục giữa kinh nghiệm cá nhân và kinh nghiệm của con người và nhân loại mà chúng ta thuộc về. Không ai có thể tách mình ra khỏi lịch sử của chính mình, khỏi lịch sử của dân tộc mình; chúng ta luôn mang theo di sản này trong thói quen và cả trong lời cầu nguyện.
Những lời cầu nguyện tốt đẹp đó lan tỏa
Trong lời cầu nguyện ngợi khen, đặc biệt là lời cầu nguyện xuất phát từ trái tim của những trẻ nhỏ và những người khiêm hạ, vang vọng những lời của kinh Magnificat mà Đức Maria đã dâng lên Thiên Chúa trước sự hiện diện của người chị họ Elizabeth; hay câu cảm thán của cụ già Simeon, người đang ôm Hài Nhi Giêsu trên tay, đã nói: “Giờ đây, theo lời Chúa đã hứa, xin để tôi tớ Người được an bình ra đi” (Lc 2,29).
Những lời cầu nguyện tốt đẹp đó “lan tỏa”, như bất kỳ điều tốt nào, tự chúng không ngừng lan truyền, dù được hay không được đăng trên mạng xã hội: từ các khoa ở bệnh viện, từ những khoảnh khắc tụ tập vui tươi mừng lễ đến những lúc mà chúng ta âm thầm đau khổ… Nỗi đau của một người là nỗi đau của mọi người, và hạnh phúc của một người được truyền sang tâm hồn người khác.
Sự chuyển cầu của các Thánh
Lời cầu nguyện luôn được tái sinh: mỗi lần chúng ta chắp tay và mở rộng tâm hồn với Thiên Chúa, chúng ta thấy mình được đồng hành với các vị Thánh vô danh và các vị Thánh được công nhận, những người đang cầu nguyện với chúng ta và những người đã khẩn cầu cho chúng ta như những anh chị em đã đi trước chúng ta trong cùng cuộc phiêu lưu của con người. Trong Giáo hội, không có nỗi đau buồn nào là của một cá nhân, không có giọt nước mắt nào bị rơi trong quên lãng, bởi vì mọi người thở và tham dự vào một ân sủng chung. Không phải ngẫu nhiên mà trong các nhà thờ cổ xưa, người ta chôn cất người chết trong những khu vườn xung quanh nhà thờ, như để nói rằng, theo một cách nào đó, những người đi trước chúng ta tham dự vào mỗi Thánh lễ. Có cha mẹ và ông bà của chúng ta ở đó, có những người cha mẹ đỡ đầu của chúng ta, những giáo lý viên của chúng ta và những giáo viên khác ở đó…
Các Thánh: những đám mây nhân chứng
Các Thánh vẫn ở đây, không xa chúng ta; và hình ảnh của các ngài trong các nhà thờ gợi lên “đám mây nhân chứng” luôn bao quanh chúng ta (Hr 12,1). Họ là những chứng nhân mà chúng ta không tôn thờ nhưng tôn kính và theo hàng ngàn cách khác nhau, họ đưa chúng ta đến với Chúa Giêsu Kitô, Chúa và Đấng Trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và con người. Một vị Thánh mà không đưa bạn đến với Chúa Giêsu Kitô thì không phải là một vị thánh, thậm chí không phải là một Kitô hữu. Vị Thánh nhắc nhở bạn về Giêsu Kitô thánh nhân đã đi theo lối sống của Kitô hữu. Các vị Thánh nhắc nhở rằng ngay cả trong cuộc sống của chúng ta, ngay cả khi yếu đuối và tội lỗi, sự thánh thiện vẫn có thể nở hoa.
Không bao giờ là quá trễ để hoán cải
Ngay cả vào thời khắc cuối cùng chũng ta vẫn có thể hoán cải. Vị Thánh đầu tiên được phong thánh là một tên trộm, và không phải bởi một Giáo hoàng nào, mà bởi chính Chúa Giêsu. Thánh thiện là một hành trình sống, gặp gỡ Chúa Giêsu, dù dài hay ngắn, dù trong tích tắc. Một vị Thánh là một nhân chứng, một người đã gặp Chúa Giêsu và đã theo Người. Không bao giờ quá trễ để hoán cải trở về với Chúa, Đấng tốt lành và vô cùng yêu thương (Tv 102, 8).
Liên đới trong cầu nguyện
Giáo lý Công giáo giải thích rằng: các Thánh “không ngừng quan tâm đến những kẻ còn ở trần gian… và chúng ta có thể và có bổn phận xin các ngài chuyển cầu cho chúng ta và cho toàn thế giới (GLCG 2683).
Chúng ta cảm nghiệm được mối liên kết cầu nguyện giữa chúng ta và các Thánh ngay từ ở đây, trong cuộc sống trần thế: chúng ta cầu nguyện cho nhau, chúng ta cầu xin và dâng những lời cầu nguyện … Cách đầu tiên để cầu nguyện cho ai đó là nói với Chúa về người đó. Nếu chúng ta làm điều này thường xuyên, mỗi ngày, trái tim của chúng ta không đóng lại, nó mở ra với các anh chị em. Cầu nguyện cho người khác là cách đầu tiên để yêu thương họ và thúc đẩy chúng ta đến sự gần gũi cụ thể. Ngay cả trong những lúc xung đột, cách để giải tỏa xung đột, làm dịu nó là cầu nguyện cho người mà tôi đang xung đột. Và điều gì đó thay đổi nhờ lời cầu nguyện. Điều đầu tiên thay đổi là trái tim của tôi, đó là thái độ của tôi. Chúa thay đổi nó để có thể có một cuộc gặp gỡ, một cuộc gặp gỡ mới và tránh để cuộc xung đột trở thành một cuộc chiến bất tận.
Cách đầu tiên để đối mặt với thời gian khốn khó là cầu xin các anh em, đặc biệt là các Thánh, cầu nguyện cho chúng ta. Tên mà chúng ta được đặt khi lãnh nhận bí tích rửa tội không phải là một nhãn hiệu hay một vật trang trí! Nó thường là tên của Đức Trinh Nữ, của một vị Thánh, những người không chờ đợi gì hơn là “giúp chúng ta một tay” trong cuộc sống, giúp chúng ta một tay để nhận được từ Thiên Chúa những ân sủng mà chúng ta cần nhất.
Các Thánh chúng ta không biết giúp chúng ta một tay
Nếu những thử thách của cuộc sống vẫn chưa đến mức hết chịu nỗi, nếu chúng ta vẫn có khả năng kiên trì, nếu bất chấp mọi việc chúng ta vẫn tiến bước một cách tin cậy, có lẽ tất cả điều này nhờ sự chuyển cầu của tất cả các Thánh, một số vị đang ở trên Thiên đàng, những vị khác đang lữ hành trên trái đất như chúng ta, những người đã bảo vệ và đồng hành với chúng ta, bởi vì chúng ta đều biết ở trên trái đất này có các vị Thánh, các Thánh Nam Nữ sống thánh thiện, những vị Thánh hàng ngày, những vị Thánh âm thầm hoặc các vị Thánh ở nhà bên cạnh, những người cùng sống và cùng làm việc với chúng ta, những người sống một cuộc sống thánh thiện.
Vì vậy, chúc tụng Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của thế giới, cùng với vô số những con người nam nữ thánh thiện đang sinh sống trên trái đất và đã biến cuộc đời họ thành một bài thánh ca dâng lên Thiên Chúa. Vì – như Thánh Basiliô đã nói – “Chúa Thánh Thần thực sự là nơi ở của các vị thánh vì các ngài tự hiến mình làm nơi ở cho Thiên Chúa và được gọi là đền thờ của Ngài” (Liber de Spiritu Sancto 26, 62: PG 32, 184A; cf. CCC , 2684).
Nguồn: vaticannews.va/vi
Ngày 14.04.2021
Bài 29: Giáo hội, thầy dạy cầu nguyện
Anh chị em thân mến,
Giáo hội là một trường học cầu nguyện tuyệt vời. Nhiều người trong chúng ta đã học cách bập bẹ những lời cầu nguyện đầu tiên khi ở trong lòng cha mẹ hoặc ông bà của mình. Có lẽ chúng ta trân trọng ký ức về cha mẹ, những người đã dạy chúng ta cầu nguyện trước khi đi ngủ. Những khoảnh khắc suy tư đó thường là những lúc các bậc cha mẹ lắng nghe một sự tin tưởng gắn bó của con cái họ và có thể đưa ra những lời khuyên được linh hứng bởi Phúc âm. Sau đó, trên hành trình trưởng thành, có những cuộc gặp gỡ khác, với những chứng nhân khác và những thầy dạy cầu nguyện (xem Giáo lý Công giáo, 2686-2687).
Cầu nguyện là sức mạnh trợ giúp chúng ta
Đời sống của một giáo xứ và của mỗi cộng đoàn Kitô hữu được đánh dấu bằng những giây phút cử hành phụng vụ và cầu nguyện của cộng đoàn. Chúng ta nhận ra rằng, món quà mà chúng ta đã nhận được trong thời thơ ấu với sự đơn sơ, là một di sản to lớn và phong phú nhất, và kinh nghiệm cầu nguyện đáng được đào sâu hơn nữa (x. Sđd, 2688). Tấm áo của đức tin không bị hồ cứng, nhưng phát triển cùng với chúng ta, ngay cả khi trải qua những khoảnh khắc khủng hoảng và hồi sinh.
Chúng ta không thể phát triển nếu không có những khoảnh khắc khủng hoảng, bởi vì khủng hoảng làm cho bạn phát triển. Đối mặt với khủng hoảng là một cách cần thiết để phát triển. Và hơi thở của đức tin là sự cầu nguyện: chúng ta càng phát triển trong đức tin khi chúng ta học cách cầu nguyện. Sau những giai đoạn nhất định trong cuộc sống, chúng ta nhận ra rằng nếu không có đức tin, chúng ta sẽ không thể làm được điều đó, và lời cầu nguyện chính là sức mạnh của chúng ta. Không chỉ lời cầu nguyện cá nhân, mà cả lời cầu nguyện của các anh chị em, và của cộng đồng đã đồng hành và hỗ trợ chúng ta, của những người biết chúng ta, của những người chúng ta xin họ cầu nguyện cho chúng ta.
Cầu nguyện xây dựng Giáo hội và xã hội
Đây cũng là lý do tại sao các cộng đoàn và nhóm dấn thân cầu nguyện phát triển liên tục trong Giáo hội. Một số Kitô hữu, thậm chí cảm thấy lời kêu gọi biến cầu nguyện trở thành hành động chính trong ngày của họ. Trong Giáo hội có các đan viện, tu viện, nơi ẩn tu, nơi những người được thánh hiến cho Thiên Chúa, sống và thường trở thành những trung tâm chiếu tỏa ánh sáng thiêng liêng. Đó là những ốc đảo nhỏ, nơi chia sẻ đời sống cầu nguyện mãnh liệt và tình hiệp thông huynh đệ được xây dựng từng ngày. Chúng là những tế bào quan trọng không chỉ đối với cơ cấu Giáo hội, mà cho chính xã hội. Chúng ta hãy nghĩ về vai trò của đời sống đan tu đối với sự ra đời và phát triển của nền văn minh châu Âu, và cả trong các nền văn hóa khác. Cầu nguyện và làm việc trong cộng đoàn giúp thế giới tiếp tục phát triển.
Cầu nguyện và cộng đồng
Mọi thứ trong Giáo hội đều phát sinh từ cầu nguyện, và mọi thứ phát triển nhờ cầu nguyện. Ví dụ, trong khi tiến hành một số cải cách và thay đổi trong Giáo hội, người ta đã nỗ lực rất nhiều về mặt tổ chức và phương tiện truyền thông nhưng đôi khi lại thiếu cầu nguyện. Cầu nguyện mở cánh cửa cho Chúa Thánh Thần, Đấng linh hứng cho chúng ta tiến bước. Không có cầu nguyện thì những thay đổi trong Giáo hội không phải là thay đổi của Giáo hội, nhưng là của nhóm. Nếu ngừng cầu nguyện, có vẻ như mọi thứ vẫn có thể tiếp diễn bình thường trong chốc lát, nhưng sau một thời gian ngắn, Giáo hội nhận ra rằng, nó đã trở nên giống như cái vỏ sò rỗng tuếch, đã mất trục nâng đỡ, không còn có nguồn năng lượng và tình yêu.
Cầu nguyện – dầu của ngọn đèn đức tin
Các thánh cho thấy điều này. Những người nam nữ thánh thiện không có cuộc sống dễ dàng hơn những người khác, ngược lại, họ cũng có những vấn đề phải đối mặt và hơn nữa, họ thường là đối tượng của sự chống đối. Nhưng sức mạnh của họ là kinh nguyện, đó là điều họ luôn rút ra từ “giếng” không bao giờ cạn của Giáo hội Mẹ. Với kinh nguyện, họ thắp lên ngọn lửa đức tin của họ, như người ta dùng dầu để đốt các ngọn đèn. Và vì vậy, họ tiếp tục bước đi trong đức tin và hy vọng. Các vị thánh, những người thường bị thế gian xem thường, thực ra, là những người nâng đỡ thế gian, không phải bằng vũ khí tiền bạc và quyền lực, nhưng bằng vũ khí cầu nguyện.
Đức tin vẫn còn khi còn cầu nguyện
Trong Tin Mừng Thánh Luca, Chúa Giêsu đặt ra một câu hỏi đầy kịch tính khiến chúng ta luôn phải suy ngẫm: “Khi Con Người đến, liệu có còn thấy đức tin trên mặt đất này nữa không?”, hay chỉ còn thấy những tổ chức, như một nhóm các doanh nhân của đức tin, được tổ chức đàng hoàng, làm các việc từ thiện? (Lc 18,8). Câu hỏi này nằm ở cuối một dụ ngôn cho thấy sự cần thiết phải cầu nguyện một cách kiên trì, không mệt mỏi (xem cc 1-8). Vì vậy, chúng ta có thể kết luận rằng: ngọn đèn đức tin sẽ luôn được thắp sáng trên trái đất, chừng nào còn có dầu cầu nguyện. Nó giúp thăng tiến đức tin và phát triển cuộc sống khốn khổ, yếu đuối, tội lỗi của chúng ta.
Tôi có cầu nguyện không?
Câu hỏi mà người Kitô hữu chúng ta cần phải tự hỏi mình là: Tôi có cầu nguyện không? Tôi cầu nguyện thế nào? Giống những con vẹt? Hay với tâm hồn? Tôi có chắc chắn cầu nguyện rằng, tôi đang ở trong Giáo hội và cầu nguyện với Giáo hội? hay tôi cầu nguyện theo ý tưởng của mình một chút và làm cho ý tưởng của tôi trở thành lời cầu nguyện? Đây là một lời cầu nguyện ngoại giáo, không phải là Kitô giáo. Chúng ta có thể kết luận rằng: ngọn đèn đức tin sẽ luôn được thắp sáng trên trái đất chừng nào còn có dầu cầu nguyện.
Sứ mệnh của Giáo hội: Cầu nguyện và giáo dục cầu nguyện
Và đây là nhiệm vụ thiết yếu của Giáo hội: cầu nguyện và dạy cách cầu nguyện. Chuyển trao ngọn đèn đức tin với dầu cầu nguyện từ thế hệ này sang thế hệ khác. Không có ánh sáng của ngọn đèn này, chúng ta không thể nhìn thấy con đường loan báo Tin Mừng; chúng ta không thể nhìn thấy khuôn mặt của các anh chị em để đến gần và phục vụ; chúng ta không thể thắp sáng căn phòng nơi chúng ta có thể gặp gỡ nhau trong cộng đoàn… Không có đức tin, mọi thứ sụp đổ; và nếu ngừng cầu nguyện, đức tin tin bị dập tắt. Đức tin và cầu nguyện đi đôi với nhau. Vì thế, Giáo hội, ngôi nhà và trường học của sự hiệp thông, là ngôi nhà và trường học của cầu nguyện.
Nguồn: vaticannews.va/vi
Ngày 21.04.2021
Bài 30: Cầu nguyện thành tiếng
Anh chị em thân mến, chào anh chị em!
Cầu nguyện là đối thoại với Thiên Chúa; và mỗi thụ tạo, theo một nghĩa nào đó, “đối thoại” với Thiên Chúa. Nơi con người, kinh nguyện trở thành lời nói, kêu cầu, ca hát, thơ phú… Lời Chúa đã nhập thể, trở thành người, và trong xác thể của mỗi người, lời nói trở về cùng Thiên Chúa trong kinh nguyện.
Vai trò của lời nói
Những lời nói là do chúng ta tạo nên, và chúng cũng là mẹ của chúng ta, và theo một mức độ nào đó, chúng nhào nặn nên chúng ta. Những lời của một kinh nguyện làm cho chúng ta tiến qua thung lũng tối mà không bị nguy hiểm, hướng dẫn chúng ta về những đồng cỏ xanh tươi và nhiều nước, làm cho chúng ta hân hoan dùng tiệc dưới mắt của một kẻ thù, như thánh vịnh dạy chúng ta xướng lên (Tv 23). Những lời nói nảy sinh từ những tâm tình, nhưng cũng có con đường ngược lại: con đường qua đó, những lời nói hình thành các tâm tình. Thánh vịnh dạy con người làm sao để tất cả diễn ra dưới ánh sáng của lời nói, không có gì thuộc con người bị loại trừ, bị bãi bỏ. Nhất là đau khổ trở thành nguy hiểm nếu nó bị đè nén, bị đóng kín trong chúng ta…
Kinh thánh dạy cầu nguyện thành tiếng nói
“Chính vì lý do đó Kinh thánh dạy chúng ta cầu nguyện cả bằng lời nói, đôi khi táo bạo. Các tác giả Sách Thánh không muốn nuôi ảo tưởng về con người: họ biết rằng, trong tâm hồn con người có tiềm ẩn những tâm tình không tốt, thậm chí cả những oán ghét. Không ai là thánh ngay khi sinh ra, và khi những tâm tình xấu ấy gõ cửa tâm hồn chúng ta, thì cần có khả năng tháo gỡ chúng bằng kinh nguyện và những lời của Thiên Chúa. Trong các thánh vịnh, chúng ta cũng tìm thấy cả những kiểu diễn tả rất mạnh mẽ chống lại các kẻ thù – những kiểu nói mà các bậc thầy tu đức dạy chúng ta nói về ma quỉ và các tội lỗi của chúng ta -; dầu vậy, đó là những lời thuộc về thực tại con người và rốt cuộc cũng được đưa vào Kinh Thánh. Chúng ở đó để làm chứng cho chúng ta rằng, nếu đứng trước bạo lực mà không có những lời nói để làm cho những tâm tình xấu trở nên vô hại, để khiến chúng không còn gây hại nữa, thì toàn thế giới bị nhận chìm trong đó.
Kinh nguyện được biểu lộ qua lời nói
Kinh nguyện đầu tiên của con người vẫn luôn được biểu lộ qua lời nói. Trước tiên, người ta luôn mấp máy đôi môi. Cho dù tất cả chúng ta đều biết rằng, cầu nguyện không có nghĩa là lập lại những lời nói, nhưng cầu nguyện thành tiếng là điều chắc chắn nhất và luôn có thể thực hành nó. Trái lại, những tâm tình, dù là cao thượng, không luôn luôn chắc chắn: nó đến rồi đi, chúng bỏ rơi chúng ta và trở lại. Không những vậy, cả những ơn phúc của kinh nguyện cũng không thể lường trước được: có những lúc được nhiều an ủi, nhưng trong những ngày đen tối nhất, những an ủi ấy dường như biến tan. Kinh nguyện trong tâm hồn thật là mầu nhiệm và có những lúc nó ẩn nấp. Trái lại, kinh nguyện trên môi, kinh nguyện mà ta thì thầm, hoặc đọc trong cung nguyện, đọc chung, luôn có sẵn, và cần thiết như công việc tay chân. Sách Giáo lý quả quyết “Kinh nguyện thành tiếng là một yếu tố thiết yếu trong đời sống Kitô. Với các môn đệ, bị thu hút vì kinh nguyện thầm lặng của Thầy, Thầy đã dạy họ một kinh nguyện thành tiếng, đó là kinh Lạy Cha” (n. 2701).
Tầm quan trọng của cầu nguyện thành tiếng
Tất cả chúng ta phải có sự khiêm tốn của một số người già, trong nhà thờ, có lẽ tai họ không còn bén nhạy nữa, họ đọc kinh thành tiếng mà họ đã học khi còn nhỏ, làm cho thánh đường đầy những tiếng thì thầm. Kinh nguyện ấy không làm xáo trộn thinh lặng, nhưng làm chứng về lòng trung thành với nghĩa vụ cầu nguyện, được thực hành trong trọn cuộc sống, không bao giờ được thiếu. Những người cầu nguyện với kinh nguyện khiêm tốn thường là những người chuyển cầu lớn cho giáo xứ: đó là những cây cổ thụ từ năm nay qua năm khác, làm cho các cành lá lan rộng để mang lại bóng mát cho nhiều người hơn. Chỉ Thiên Chúa biết khi nào và tới cấp độ nào con tim của họ kết hiệp với những kinh nguyện được đọc lên; chắc chắn những người ấy phải trải qua những đêm đen và những lúc trống rỗng. Nhưng họ vẫn luôn trung thành với kinh nguyện thành tiếng.
Gương người lữ hành Nga
Tất cả chúng ta cần học từ sự kiên trì của người lữ hành Nga, được nói đến trong một tác phẩm tu đức nổi tiếng, ông ta đã học nghệ thuật cầu nguyện bằng cách liên tục lập lại cùng một lời cầu khẩn: “Lạy Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, là Chúa, xin thương xót chúng con là kẻ tội lỗi!” (xc. SGL 2516; 2667). Sở dĩ ân phúc đến trong cuộc sống của ông, sở dĩ việc nguyện gẫm một ngày kia trở thành rất sốt sắng, đến độ ông cảm nghiệm được sự hiện diện của Nước Chúa giữa chúng ta, sở dĩ cái nhìn của ông được biến đổi đến độ trở nên như cái nhìn của một trẻ thơ, đó chính là vì ông đã kiên trì qua việc đọc một lời kinh Kitô bộc phát và đơn sơ. Sau cùng, lời kinh ấy trở nên thành phần hơi thở của ông.
Đừng coi rẻ kinh nguyện thành tiếng
Vì thế, chúng ta đừng coi rẻ kinh nguyện thành tiếng. Những lời chúng ta thốt lên, cầm lấy tay chúng ta; trong một lúc nào đó chúng trả lại hương vị, thức tỉnh cả sự ngái ngủ của con tim, thức tỉnh những tâm tình mà chúng ta không nhớ nữa. Và nhất là, đó là những điều duy nhất, chắc chắn, dâng lên Thiên Chúa những lời cầu xin mà Chúa muốn nghe. Chúa Giêsu không bỏ rơi chúng ta trong mây mù. Chúa nói với chúng ta: “Phần các con, khi cầu nguyện, hãy nói thế này!”. Và Chúa đã dạy chúng ta Kinh Lạy Cha” (Mt 6,9).
Nguồn: vietnamese.rvasia
Ngày 28.04.2021
Bài 31: Suy niệm
Hôm nay, chúng ta nói về một hình thức cầu nguyện là suy niệm. Đối với một Kitô hữu, “suy niệm” là tìm kiếm một tổng hợp: có nghĩa là đặt mình trước trang sách lớn của Mạc Khải để tìm cách biến trang ấy thành của chúng ta, hấp thụ hoàn toàn trang ấy. Và Kitô hữu, sau khi đón nhận Lời Chúa, không khép kín trang ấy trong mình, vì Lời Chúa phải được gặp gỡ một “cuốn sách khác” mà Sách Giáo lý gọi là “cuốn sách cuộc sống” (SGLCG 2705). Đó là điều chúng ta cố gắng làm, mỗi khi chúng ta suy niệm Lời Chúa.
Suy niệm nói chung
Việc thực hành suy niệm được chú ý nhiều trong những năm gần đây. Không phải chỉ các tín hữu Kitô mới nói về vấn đề này: hầu như trong tất cả các tôn giáo trên thế giới cũng thực hành việc suy niệm. Nhưng đây là một hoạt động cũng phổ biến cả nơi những người không có quan niệm tôn giáo về cuộc sống. Tất cả chúng ta đều cần suy niệm, suy tư, tìm lại chính mình. Nhất là trong thế giới dồn dập ở Tây phương, người ta tìm kiếm sự suy niệm vì nó là một con đê cao chống lại sự căng thẳng thường nhật và cái trống rỗng lan tràn khắp nơi. Vì thế, có hình ảnh những người trẻ và người lớn ngồi tịnh niệm, trong thinh lặng, đôi mắt khép lại… Những người ấy đang làm gì thế? Thưa họ suy niệm. Đó là một hiện tượng được nhìn với thiện cảm: thực vậy chúng ta không được tạo thành để liên tục chạy, chúng ta có một đời sống nội tâm không luôn luôn có thể bị chà đạp. Vì thế, suy niệm là một nhu cầu của mọi người.
Suy niệm Kitô giáo
Nhưng chúng ta nhận thấy rằng từ suy niệm này, một khi được đón nhận trong bối cảnh Kitô giáo, có một đặc tính không được xóa bỏ. Cánh cửa lớn, qua đó kinh nguyện của một tín hữu đã chịu phép rửa tiến qua chính là Chúa Giêsu Kitô. Đó là điều chúng ta cần nhớ. Cả việc thực hành suy niệm cũng theo con đường ấy. Kitô hữu, khi cầu nguyện, không mong mỏi sự sáng tỏ hoàn toàn về bản thân, không tìm kiếm một cốt lõi sâu xa nhất của bản ngã; kinh nguyện Kitô trước tiên là cuộc gặp gỡ với một Đấng khác. Nếu kinh nghiệm về cầu nguyện mang lại cho chúng ta an bình nội tâm, hoặc tự chủ, hoặc sáng suốt về con đường phải theo, ta có thể nói những kết quả ấy là những công hiệu phụ của ơn thánh do kinh nguyện Kitô là cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu mang lại.
Từ “suy niệm” qua dòng lịch sử có những ý nghĩa khác nhau. Cả trong Kitô giáo, nó cũng chỉ những kinh nghiệm thiêng liêng khác nhau. Nhưng ta có thể vạch ra vài đường hướng chung, và trong lãnh vực này Sách Giáo lý cũng giúp chúng ta, khi khẳng định rằng: “Có nhiều phương pháp suy niệm, cũng như có nhiều thầy dạy linh đạo. […] Nhưng một phương pháp không phải là một nhà hướng đạo; điều quan trọng là tiến bước, với Thánh Linh, trên con đường duy nhất của sự cầu nguyện: đó là Chúa Giêsu Kitô” (n.2707).
Các phương pháp suy niệm
Vì thế, có bao nhiêu phương pháp suy niệm Kitô giáo: một số phương pháp đơn giản, có những phương pháp khác phức tạp hơn; một số nhấn mạnh chiều kích trí thức của con người, một số khác nhấn mạnh hơn chiều kích tình cảm và cảm xúc. Tất cả đều quan trọng và đáng được thực hành, vì chúng có thể giúp kinh nguyện đức tin trở thành một hành vi hoàn toàn là của con người: không phải chỉ có tâm trí con người cầu nguyện, cũng như không phải chỉ có tình cảm cầu nguyện. Cổ nhân thường nói rằng, cơ quan cầu nguyện là con tim, và qua đó, họ giải thích rằng, trọn con người, từ nội tâm, đều đi vào trong tương quan với Thiên Chúa, chứ không phải vài cơ năng của con người mà thôi. Vì thế, ta phải luôn nhớ rằng, phương pháp là một con đường, chứ không phải là mục đích, bất kỳ phương pháp nào, nếu muốn có đặc tính Kitô, đều phải là thành phần của việc theo Chúa Kitô, là điều thiết yếu trong đức tin của chúng ta. Sách Giáo lý cũng minh xác rằng: “Suy niệm khởi động tư tưởng, trí tưởng tượng, cảm xúc và ước muốn. Sự động viên này là cần thiết để đào sâu những xác tín đức tin, khơi lên sự hoán cải tâm hồn và củng cố ý chỉ theo Chúa. Kinh nguyện Kitô ưu tiên dừng lại suy niệm “các mầu nhiệm Chúa Kitô” (n.2708)
Tương quan với Chúa Kitô
Vì thế, ơn cầu nguyện Kitô là: Chúa Kitô không ở xa, nhưng luôn ở trong tương quan với chúng ta. Không có khía cạnh nào trong con người của Ngài, – vừa là Chúa và là con người – mà không thể trở thành nơi cứu độ và hạnh phúc cho chúng ta. Mỗi lúc trong cuộc sống trần thế của Chúa Giêsu, qua ơn cầu nguyện, đều có thể trở thành đồng thời với chúng ta. Nhờ Thánh Linh, cả chúng ta cũng hiện diện nơi sông Giordan, khi Chúa Giêsu dìm mình xuống đó để chịu phép rửa. Cả chúng ta cũng là thực khách trong tiệc cưới Cana, khi Chúa Giêsu ban rượu ngon hơn, để mưu hạnh phúc cho đôi tân hôn. Cả chúng ta cũng kinh ngạc chứng kiến hàng ngàn cuộc chữa lành do Chúa làm. Và trong kinh nguyện, chúng ta là người phong cùi được thanh tẩy, người mù Bartimeo được sáng mắt, ông Lazzaro ra khỏi mồ… Không có đoạn Tin mừng nào mà không có chỗ cho chúng ta trong đó. Đối với các Kitô hữu chúng ta, suy niệm là một cách để gặp Chúa Giêsu. Và như thế, và chỉ như thế, chúng ta mới tìm lại được chính mình.
Nguồn: vietnamese.rvasia
Ngày 05.05.2021
Bài 32: Cầu nguyện chiêm niệm
Anh chị em thân mến, chào anh chị em!
Trong bài giáo lý này, tôi muốn nói về việc cầu nguyện chiêm niệm.
Chiêm niệm trong cuộc sống
Chiều kích chiêm niệm của con người – chưa phải là kinh nguyện chiêm niệm – phần nào cũng như “muối” cho cuộc sống: nó mang lại hương vị cho những ngày của chúng ta. Ta có thể chiêm niệm khi nhìn mặt trời mọc lúc bình minh, hoặc nhìn cây cối xanh tươi trong mùa Xuân; ta có thể chiêm niệm khi nghe âm nhạc hoặc tiếng chim hót, đọc sách, đứng trước một tác phẩm nghệ thuật hoặc một kiệt tác là khuôn mặt con người… Carlo Maria Martini, khi được gửi đến làm Giám mục tại Milano, đã đặt tựa đề cho thư mục vụ đầu tiên của ngài là “Chiều kích chiêm niệm của cuộc sống”: thực vậy, ai sống trong một thành phố lớn, nơi mà tất cả là nhân tạo và nhắm tới các chức năng, có nguy cơ đánh mất khả năng chiêm niệm. Chiêm niệm, trước tiên không phải là một cách hành động, nhưng là một cách sống, hiện hữu.
Kinh nguyện chiêm niệm
Là người chiêm niệm không tùy thuộc đôi mắt, nhưng tùy thuộc con tim. Ở đây, kinh nguyện can dự vào, như một hành vi tin và yêu, như “hơi thở” của tương quan của chúng ta với Thiên Chúa. Kinh nguyện thanh tẩy con tim, và qua đó, chiếu sáng cả cái nhìn, giúp lãnh hội thực tại dưới một phương diện khác. Sách Giáo lý mô tả sự biến cải tâm hồn từ phía kinh nguyện, khi trích dẫn chứng từ thời danh của cha sở họ Ars, khi cầu nguyện trước Nhà Tạm Mình Thánh Chúa. […] Ánh sáng cái nhìn của Chúa Giêsu soi sáng đôi mắt của tâm hồn chúng ta; dạy chúng ta nhìn mọi sự dưới ánh sáng chân lý và sự cảm thương của Chúa đối với mọi người” (SGL 2715). Tất cả nảy sinh từ đó: từ một con tim cảm thấy được nhìn với tình yêu thương. Khi ấy thực tại được chiêm ngắm với đôi mắt khác.
“Tôi nhìn Ngài, và Ngài nhìn tôi!”. Đó là thế: trong chiêm niệm yêu thương, là tiêu biểu của kinh nguyện thân mật nhất, không cần nhiều lời: chỉ cần một cái nhìn, chỉ cần xác tín rằng cuộc sống chúng ta được một tình yêu lớn lao và trung thành hơn bao phủ và không gì có thể tách rời chúng ta khỏi tình yêu ấy.
Chúa Giêsu dạy chiêm niệm
Chúa Giêsu là Thầy dạy cái nhìn ấy. Trong cuộc sống của Ngài không bao giờ thiếu thời giờ, có những không gian, thinh lặng, hiệp thông yêu thương giúp cho cuộc sống không bị tàn phá vì những thử thách không thiếu, nhưng gìn giữ nguyên vẹn vẻ đẹp. Bí quyết của Ngài là tương quan với Cha trên trời.
Chúng ta hãy nghĩ đến biến cố Chúa Hiển dung. Các sách Tin mừng đặt giai thoại này trong lúc sứ mạng của Chúa Giêsu gặp khó khăn, khi sự chống đối và phủ nhận đối với Ngài gia tăng. Thậm chí nhiều người trong số các môn đệ của Ngài cũng không hiểu Ngài và bỏ ra đi; một trong nhóm Mười Hai lại nuôi dưỡng những ý tưởng phản bội. Chúa Giêsu bắt đầu nói công khai về những đau khổ và cái chết đang chờ đợi Ngài ở Jerusalem. Chính trong bối cảnh đó, Chúa Giêsu lên núi cao với các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan. Tin mừng theo thánh Marco kể lại: “Ngài hiển dung trước mặt họ và áo Ngài trắng sáng: không có thợ giặt nào trên trái đất có thể làm cho áo trắng như thế” (9,2-3). Chính trong lúc Chúa Giêsu không được cảm thông, chính khi tất cả dường như bị lu mờ trong cơn lốc hiểu lầm, ánh sáng thần linh chiếu tỏa rạng ngời. Đó là ánh sáng tình thương của Chúa Cha tràn đầy tâm hồn Chúa Con và làm cho toàn con người của Chúa Con được hiển dung.
Chiêm niệm không đối nghịch với hành động
Một số tôn sư tu đức trong quá khứ đã hiểu sự chiêm niệm đối nghịch với hành động và đã đề cao những ơn gọi xa tránh trần thế, với các vấn đề của thế gian và hoàn toàn chuyên chăm cầu nguyện. Trong thực tế, trong Chúa Giêsu Kitô và trong Tin Mừng không có sự đối nghịch giữa chiêm niệm và hành động. Sự đối nghịch ấy xảy ra có lẽ do ảnh hưởng của vài triết gia tân Platon, nhưng chắc chắn đó là một thứ nhị nguyên không thuộc vào sứ điệp Kitô giáo.
Yêu thương và chiêm niệm đồng nghĩa với nhau
Có một lời kêu gọi lớn duy nhất trong Tin Mừng và đó là lời kêu gọi theo Chúa Giêsu trên con đường yêu thương. Đó là tột đỉnh và là trung tâm mọi sự. Theo nghĩa đó, yêu mến và chiêm niệm đồng nghĩa với nhau, nói lên cùng một sự việc. Thánh Gioan Thánh giá chủ trương rằng, một hành vi yêu mến thanh khiết bé nhỏ thì hữu ích cho Giáo hội hơn tất cả những công việc khác cộng lại. Điều này nảy sinh từ kinh nguyện chứ không từ sự tự phụ của cái tôi. Điều này được thanh tẩy nhờ sự khiêm tốn, cho dù một hành vi yêu thương là riêng rẽ và thầm lặng, thì đó vẫn là phép lạ lớn nhất mà một Kitô hữu có thể thực hiện.
Nguồn: vietnamese.rvasia
Ngày 12.05.2021
Bài 33: Chiến đấu trong cầu nguyện
Anh chị em thân mến, chào anh chị em!
Tôi hài lòng mở lại cuộc gặp gỡ diện đối diện này, vì nói trước mặt mà không có gì, trước một máy thu hình, là điều không đẹp lắm. Và bây giờ sau bao nhiêu tháng, nhờ lòng can đảm của Đức ông Sapienza, (trưởng ban tiếp kiến) chúng ta làm buổi tiếp kiến tại đây. Và gặp lại anh chị em, mỗi người có lịch sử riêng, những người đến từ các nơi, từ Italia, Hoa Kỳ, Colombia, có đội bóng với bốn anh em nhỏ người Thụy Sĩ, thiếu em gái nữa. Nhìn thấy mỗi người anh chị em, thật là điều hài lòng, vì tất cả chúng ta đều là anh em trong Chúa. Cả những người ở xa cũng trở nên gần gũi. Có sơ Genevière, đến từ Lunapark, những người làm việc. Cám ơn anh chị em vì sự hiện diện và viếng thăm của anh chị em. Hãy mang sứ điệp của tôi đến cho mọi người…
Khó khăn khi cầu nguyện
Về kinh nguyện Kitô, cũng như toàn thể cuộc sống Kitô hữu, không phải là “một cuộc đi dạo”. Trong số những vị cầu nguyện mà chúng ta gặp trong Kinh Thánh và trong lịch sử Giáo hội, không ai có một kinh nguyện “thoải mái”. Chắc chắn kinh nguyện này mang lại một an bình lớn, nhưng qua một cuộc chiến đấu nội tâm, nhiều khi cam go, có thể xảy ra trong những giai đoạn nhiều khi lâu dài trong cuộc sống. Cầu nguyện không phải là điều dễ dàng. Mỗi khi chúng ta muốn cầu nguyện, tự nhiên trong tâm trí xuất hiện bao nhiêu hoạt động khác, mà trong lúc bình thường những việc này có vẻ không quan trọng và cấp thiết như vậy. Hầu như sau khi hoãn lại việc cầu nguyện, chúng ta mới nhận thấy những việc đó không hề cấp thiết như thế, và thậm chí chúng ta còn phí phạm thời giờ vì chúng. Kẻ thù lường gạt chúng ta như vậy.
Kinh nghiệm của các thánh nhân khi cầu nguyện
Tất cả những người nam nữ của Thiên Chúa không phải chỉ kể lại niềm vui khi cầu nguyện, nhưng cả những nhàm chán và mệt mỏi mà kinh nguyện có thể tạo nên: trong một lúc nào ấy, kinh nguyện là một cuộc chiến đấu cam go nếu muốn trung thành với thời giờ và cách thức cầu nguyện. Vài vị thánh tiếp tục cầu nguyện, năm này qua năm kia, mà không cảm thấy hứng thú khi cầu nguyện, không cảm thấy sự hữu ích của kinh nguyện. Thinh lặng, cầu nguyện, sự tập trung là những tập luyện khó khăn, và nhiều khi bản tính con người nổi lên chống lại. Chúng ta thích ở nơi khác trên thế giới, chứ không ở đó để cầu nguyện, trên băng ghế nhà thờ để cầu kinh. Ai muốn cầu nguyện phải nhớ rằng đức tin không phải là dễ dàng, và đôi khi ta tiến bước trong tăm tối hầu như hoàn toàn, không có những điểm tham chiếu.
Những kẻ thù chống cầu nguyện
Sách Giáo lý liệt kê một danh sách dài những kẻ thù của cầu nguyện (Xc nn. 2726-2728). Có người nghi ngờ không biết kinh nguyện có thể thực sự đi tới Thiên Chúa toàn năng hay không: tại sao Thiên Chúa im lặng? Đứng trước sự bất khả lãnh hội về những sự thần linh, có những người khác nghi ngờ phải chăng kinh nguyện chỉ là một động tác tâm lý; một hoạt động có lẽ là hữu ích nhưng không thực sự cần thiết: thậm chí người ta có thể thực hành cầu nguyện mà không phải là tín hữu.
Khó khăn nhất đến từ nội tâm chúng ta
Nhưng những kẻ thù tai hại nhất của kinh nguyện là ở trong chúng ta. Sách Giáo lý gọi chúng là: “Nản chí trước những khô khan của chúng ta, buồn sầu vì không dâng hiến tất cả cho Chúa, vì chúng ta có “nhiều của cải”, thất vọng vì không được lắng nghe theo ý chúng ta, sự hãnh diện của chúng ta bị tổn thương khi cứ nhấn mạnh về sự bất xứng của chúng ta là kẻ tội lỗi, dị ứng đối với sự nhưng không của kinh nguyện” (n. 2728). Hiển nhiên đó chỉ là một danh sách tóm lược, có thể dài hơn nữa.
Vượt qua khó khăn và cám dỗ khi cầu nguyện
Vậy ta phải làm gì trong khi bị cám dỗ, khi mà tất cả dường như lung lay? Nếu chúng ta duyệt qua lịch sử tu đức, chúng ta nhận thấy ngay cách thức các vị tôn sư của linh hồn nhận rõ tình trạng mà chúng ta đã mô tả. Để khắc phục chúng, mỗi tôn sư ấy đã đóng góp một phần: một lời khôn ngoan, hoặc một gợi ý để đương đầu với những thời kỳ gặp khó khăn. Đây không phải là những lý thuyết được đề ra trong văn phòng, đúng hơn là những lời khuyên nảy sinh từ kinh nghiệm, chứng tỏ tầm quan trọng phải kháng cự và kiên trì trong kinh nguyện.
Thật là điều hay khi duyệt qua một số những lời khuyên ấy, vì mỗi lời đều đáng được đào sâu. Ví dụ cuốn “Linh thao” của thánh Ignatio Loyola là một cuốn sách nhỏ chứa đựng những khôn ngoan sâu xa, dạy cách xếp đặt thứ tự cuộc sống của ta. Sách ấy giúp hiểu rằng, đời sống Kitô là một cuộc chiến đấu, là quyết định ở dưới lá cờ của Chúa Giêsu Kitô chứ không phải dưới ngọn cờ của ma quỉ, cố gắng làm điều thiện cả khi nó trở thành khó khăn.
Chúng ta không lẻ loi khi chiến đấu
Trong những lúc thử thách, nên nhớ lại rằng chúng ta không lẻ loi, có ai đó canh chừng bên cạnh và bảo vệ chúng ta. Cả thánh Antôn Viện phụ, người sáng lập đời đan tu Kitô ở Ai Cập cũng đã đương đầu với những lúc kinh khủng, trong đó, kinh nguyện biến thành một cuộc chiến đấu cam go. Người viết tiểu sử thánh Antôn là thánh Atanasio, Giám mục thành Alexandria kể rằng: một trong những giai thoại tệ nhất xảy ra cho thánh Antôn là vào khoảng 35 tuổi, tuổi mà nhiều người thường gặp khủng hoảng. Thánh Antôn bị xáo trộn vì thử thách ấy, nhưng ngài chống cự. Sau cùng khi thanh thản trở lại, thánh nhân ngỏ lời với Chúa với giọng hầu như trách móc: “Chúa ở đâu? Tại sao Chúa không đến ngay để chấm dứt những đau khổ của con?”. Và Chúa Giêsu đáp: “Antôn, Cha vẫn ở đó. Nhưng Cha đợi xem con chiến đấu” (Cuộc đời thánh Antôn, 10).
Chúa luôn ở cạnh chúng ta
Và Đức Thánh Cha kết luận rằng: “Chúa Giêsu luôn ở với chúng ta: nếu trong một lúc mù quáng, chúng ta không nhận thấy sự hiện diện của Ngài, chúng ta sẽ thấy được trong tương lai. Nhiều khi chúng ta cũng lập lại cùng câu nói mà Tổ phụ Giacob một hôm đã nói: “Hẳn thật, Chúa ở đây mà tôi không biết” (St 28,16). Vào cuối đời, khi nhìn lại đằng sau, cả chúng ta cũng có thể nói: “Tôi tưởng mình cô độc, nhưng không phải vậy, Chúa Giêsu ở với tôi”.
Nguồn: vietnamese.rvasia
Ngày 19.05.2021
Bài 34: Chia trí, khô khan và lười biếng trong cầu nguyện
Anh chị em thân mến, chào anh chị em!
Theo hướng đi của Sách Giáo lý, trong bài huấn giáo này, chúng ta bàn về kinh nghiệm sống thực kinh nguyện, tìm cách chứng tỏ một vài khó khăn rất thông thường cần xác định rõ và khắc phục.
Chia trí
Vấn đề đầu tiên thường xuất hiện đối với người cầu nguyện là sự chia trí (Xc SLG, 2729). Kinh nguyện thường gặp phải sự chia trí. Thực vậy, tâm trí con người khó dừng lâu vào một tư tưởng duy nhất. Tất cả chúng ta cảm nghiệm cái dòng liên tục những hình ảnh và ảo tưởng luôn chuyển động, thậm chí cả trong lúc chúng ta ngủ. Và tất cả chúng ta đều biết rằng không nên chiều theo xu hướng lộn xộn này.
Hiện tượng chia trí trong mọi lãnh vực
Cuộc chiến đấu để chinh phục và duy trì sự tập trung không phải chỉ liên hệ tới kinh nguyện mà thôi. Nếu ta không đạt tới một mức độ tập trung đủ, thì ta không thể học hành hữu ích và cũng chẳng thể làm việc cho nên. Các vận động viên biết rằng, không thể thắng trong các cuộc thi đua bằng các cuộc tập luyện thể lý mà thôi, nhưng còn phải có kỷ luật tâm trí nữa: nhất là với khả năng tập trung và giữ cho sự chú ý được tỉnh thức.
Cần bài trừ chia trí
Những chia trí không phải là điều tội lỗi, nhưng cần phải bài trừ chúng. Trong gia sản đức tin của chúng ta, có một nhân đức thường bị quên lãng, nhưng rất hiện diện trong Tin mừng. Đó là sự tỉnh thức (vigilanza). Sách Giáo lý trưng dẫn đích thị điều này trong phần dạy về sự cầu nguyện (Xc n. 2730). Chúa Giêsu thường nhắc nhở các môn đệ nghĩa vụ phải sống tiết độ, được một tư tưởng hướng dẫn, đó là trước sau gì Chúa cũng sẽ trở lại, như hôn phu từ tiệc cưới trở về hoặc như ông chủ du hành trở về. Nhưng vì không biết ngày giờ ông trở về, nên mọi giờ phút trong cuộc sống chúng ta đều là quí giá và không được phung phí trong những chia trí. Trong một khoảnh khắc mà chúng ta không biết, sẽ vang dội tiếng Chúa nói: trong ngày ấy, phúc cho những đầy tớ mà ông thấy đang chăm chỉ làm việc, đang tập trung vào những gì thực sự là đáng kể. Họ không chia trí vì chạy theo những gì thu hút xuất hiện trong tâm trí, nhưng họ đã tìm cách bước đi trên con đường công chính, chu toàn công tác của mình.
Khô khan
Sang đến sự khô khan. Sách Giáo lý mô tả thời gian này như sau: “Con tim không nhạy cảm, không hứng thú đối với tư tưởng, ký ức và những tâm tình, kể cả những tâm tình thiêng liêng. Đó là lúc để có đức tin tinh tuyền, ở lại với Chúa Giêsu trong cơn hấp hối và trong mộ” (n.2731).
Thường thường, chúng ta không biết tại sao lại khô khan: có thể nó không tùy thuộc chúng ta, nhưng cũng tùy thuộc Thiên Chúa, Ngài cho phép một số hoàn cảnh của đời sống bên ngoài hay nội tâm. Các bậc thầy tu đức mô tả kinh nguyện đức tin như một sự liên tục luân chuyển giữa thời kỳ an ủi và thời kỳ buồn sầu; những lúc tất cả mọi sự đều dễ dàng, trong khi những lúc khác thì ta cảm thấy rất nặng nề.
Lười biếng
Về sự lười biếng, nó là một cám dỗ đích thực chống lại kinh nguyện, và nói chung, nó đi ngược đời sống Kitô. Lười biếng là “một hình thức xuống tinh thần do sự lỏng lẻo trong sự khổ chế, do sự thiếu tỉnh thức, thiếu gìn giữ tâm hồn” (SGL 2733). Đó là một trong bảy mối tội đầu, vì nó được nuôi dưỡng bằng sự kiêu ngạo, có thể dẫn tới cái chết của linh hồn.
Vượt thắng lười biếng
Vậy phải làm thế nào trong sự nối tiếp những hăng hái và chán nản như thế? Ta phải học cách luôn tiến bước. Tiến bộ đích thực của đời sống thiêng liêng không hệ tại gia tăng những lúc xuất thần, ngất trí, nhưng là khả năng kiên trì trong những thời kỳ khó khăn. Chúng ta hãy nhớ dụ ngôn của thánh Phanxicô về niềm vui hoàn hảo: không phải theo số lượng những gia sản vô biên từ trời rơi xuống, mà người ta đo lường sự tài giỏi của một tu sĩ, nhưng là tùy theo sự kiên trì tiến bước, cả khi không được nhìn nhận, cả khi bị ngược đãi, và kể cả khi bị mất hoàn toàn sở thích ban đầu. Tất cả các thánh đã trải qua “thung lũng tối” như thế, và chúng ta đừng lấy làm gương mù khi đọc nhật ký của các vị, chúng ta nghe kể lại những buổi tối cầu nguyện chán nản, không chút hứng thú. Cần học nói rằng “Lạy Chúa, kể cả khi Chúa có vẻ làm mọi sự để con ngừng tin nơi Chúa, con vẫn tiếp tục cầu khẩn Chúa”. Các tín hữu không bao giờ dập tắt sự cầu nguyện! Kinh nguyện nhiều khi có thể giống như kinh nguyện của ông Gióp, ông không chấp nhận Thiên Chúa đối xử bất công với ông, ông phản đối và kiện cáo Chúa.
Cả chúng ta cũng vậy, chúng ta ít thánh thiện và kiên nhẫn so với ông Gióp. Chúng ta biết rằng sau cùng, vào cuối thời kỳ chán nản, trong đó chúng ta gióng lên trời cao những tiếng kêu câm nín và bao nhiêu câu hỏi “tại sao?”, Thiên Chúa sẽ trả lời chúng ta. Và cho dù những tiếng kêu của chúng ta gay gắt và cay đắng nhất, Chúa vẫn đón nhận những tiếng kêu ấy với tình thương của một người Cha, và coi chúng như một hành vi đức tin, một kinh nguyện.
Nguồn: vietnamese.rvasia
Ngày 26.05.2021
Bài 35: Chắc chắn được lắng nghe khi cầu nguyện
Anh chị em thân mến, chào anh chị em!
Có một sự phản đối mạnh mẽ chống lại việc cầu nguyện, đi từ một nhận xét mà tất cả chúng ta đều có: đó là chúng ta đã cầu nguyện, đã xin, nhưng nhiều lần dường như những kinh nguyện của chúng ta không được lắng nghe: điều mà chúng ta cầu xin – cho bản thân và cho người khác – không được đáp ứng. Và động lực thúc đẩy chúng ta cầu nguyện là cao thượng (như cầu xin cho một người bệnh được lành hoặc xin cho chiến tranh chấm dứt). Sự việc không được lắng nghe như vậy có thể thực là một cớ vấp phạm. “Thậm chí một số người ngưng cầu nguyện, vì họ nghĩ, lời khẩn cầu của họ không được lắng nghe” (SGL n. 2734). Nếu Thiên Chúa là Cha, thì tại sao Ngài không lắng nghe chúng ta? Ngài đã cam kết cho con cái những điều tốt lành mà họ xin Ngài (Mt 7.10), vậy tại sao Chúa không đáp lại những lời xin của chúng ta?”
Câu trả lời của Sách Giáo lý
Sách Giáo lý cống hiến cho chúng ta một tổng hợp tốt về vấn đề này. Sách cảnh giác chúng ta về nguy cơ không sống kinh nghiệm đức tin đích thực, nhưng biến tương quan với Thiên Chúa thành một cái gì ma thuật. Thực vậy, khi chúng ta cầu nguyện, chúng ta có thể gặp nguy cơ không phải chúng ta phụng sự Chúa, nhưng là đòi Ngài phải phục vụ chúng ta (n. 2735). Và khi ấy, một kinh nguyện luôn yêu sách, muốn hướng các biến cố theo kế hoạch của chúng ta, không chấp nhận những dự phóng khác với những ước muốn của chúng ta. Trái lại, Chúa Giêsu đã rất khôn ngoan khi đặt trên môi miệng chúng ta kinh “Lạy Cha”. Đó là một kinh nguyện chỉ có những lời cầu, như chúng ta biết, nhưng những lời cầu xin đầu tiên mà chúng ta xướng lên, tất cả đều đứng về phía Thiên Chúa. Những lời cầu ấy xin cho thánh ý Chúa đối với trần thế được thể hiện chứ không phải là dự phóng của chúng ta. Tốt hơn nên để cho Chúa làm: “Xin cho danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến, ý Cha được thể hiện” (Mt 6,9-10).
Cầu xin không đúng
Thánh Phaolô tông đồ nhắc nhở chúng ta rằng, chúng ta không biết điều chúng ta nên xin (Rm 8,26). Khi chúng ta cầu nguyện, chúng ta phải khiêm tốn, để những lời chúng ta thực sự là kinh nguyện chứ không phải là một lời vô nghĩa mà Thiên Chúa từ khước. Ta cũng có thể cầu nguyện vì những động lực sai lầm: ví dụ để đánh bại kẻ thù trong chiến tranh, mà không tự hỏi Thiên Chúa nghĩ gì về chiến tranh. Thật là dễ viết trên lá cờ “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”; nhiều người lo lắng làm sao để Thiên Chúa đứng về phía họ, nhưng ít người bận tâm kiểm chứng xem họ có thực sự ở với Thiên Chúa hay không. Trong kinh nguyện, chính Thiên Chúa hoán cải chúng ta, chứ không phải chúng ta hoán cải Thiên Chúa.
Trả lời vấn nạn
Tuy nhiên, cớ vấp phạm vẫn còn: khi con người chân thành cầu nguyện, khi họ xin những thiện ích đáp ứng với Nước Chúa, khi một bà mẹ cầu xin cho người con bị bệnh, vậy tại sao nhiều lần Chúa có vẻ không lắng nghe? Để trả lời câu hỏi này, cần bình tĩnh suy gẫm các sách Tin mừng. Những trình thuật về cuộc đời Chúa Giêsu đầy những kinh nguyện: bao nhiêu người bị thương tích trong thân xác và tinh thần xin Chúa cho được lành mạnh; có người cầu xin Chúa cho người bạn không đi được nữa; có những cha mẹ mang các con cái bị bệnh đến cho Chúa… Tất cả đều là những kinh nghiệm đầy đau khổ. Đó là một tập thể vĩ đại cùng cầu khẩn: “Xin Chúa thương xót chúng con!”
Cách trả lời của Thiên Chúa
Chúng ta thấy rằng nhiều khi câu trả lời của Chúa Giêsu là tức khắc, trái lại trong một vài trường hợp khác câu trả lời ấy được hoãn lại một thời gian. Chúng ta hãy nghĩ đến người phụ nữ xứ Cana cầu xin Chúa Giêsu cho con gái bà: phụ nữ ấy phải nài nỉ lâu dài trước khi được lắng nghe (Mt 15.21-28). Hoặc chúng ta nghĩ đến người bất toại được bốn người bạn khiêng đến: thoạt đầu Chúa Giêsu tha tội cho người ấy và chỉ sau đó Ngài mới chữa lành thân xác (Mc 2,1-12). Vì vậy, trong vài trường hợp, giải pháp cho thảm trạng không phải là tức khắc.
Chúa chữa lành con gái ông Giairô
Về phương diện đó, đáng chú ý nhất là cuộc chữa lành con gái ông Giairô (Mc 5,21-33). Có một người cha chạy hổn hển: con gái ông bị đau và vì thế ông xin Chúa Giêsu giúp đỡ. Thầy nhận lời ngay, nhưng trong khi họ đi về nhà thì xảy ra một cuộc khỏi bệnh khác, rồi có tin bé gái đã chết. Mọi sự có vẻ chấm dứt, trái lại Chúa Giêsu nói với người cha ấy: “Đừng sợ, hãy có lòng tin!” (Mc 5.36), “Hãy tiếp tục tin”: đó là niềm tin nâng đỡ kinh nguyện. Và thực vậy, Chúa Giêsu đã đánh thức bé gái ấy khỏi giấc ngủ sự chết. Nhưng trong một thời gian nào đó, ông Giairô đã phải bước đi trong tối tăm, với một tia lửa đức tin.
Kinh nghiệm của Chúa Giêsu
Cả kinh nguyện mà Chúa Giêsu dâng lên Chúa Cha trong vườn Giệtsimani dường như không được lắng nghe. Chúa Con phải uống trọn chén khổ nạn. Nhưng Thứ Bảy Tuần Thánh không phải là chương chót, vì ngày thứ ba có cuộc phục sinh: Sự Ác làm chủ trong ngày áp chót nhưng không bao giờ là chủ ngày cuối cùng. Vì điều ấy thuộc về một mình Thiên Chúa và đó là ngày trong đó tất cả những khát vọng cứu rỗi của nhân loại được mãn nguyện.
Nguồn: vietnamese.rvasia
Ngày 02.06.2021
Bài 36: Chúa Giêsu, gương mẫu và linh hồn của mọi lời cầu nguyện
Anh chị em thân mến, chào anh chị em!
Các sách Tin mừng tỏ cho chúng ta thấy cầu nguyện là điều cơ bản trong tương quan của Chúa Giêsu với các môn đệ của Ngài. Chúng ta đã thấy điều đó trong việc chọn lựa những người sẽ trở thành tông đồ sau này. Thánh Luca cho thấy tiêu chuẩn của việc tuyển chọn các tông đồ: “Trong những ngày ấy, Chúa lên núi và cầu nguyện, trải qua đêm trường, Ngài cầu khẩn Thiên Chúa. Khi trời sáng, Ngài gọi các môn đệ đến và chọn mười hai người và Ngài gọi họ là tông đồ” (6.12-13). Chúa Giêsu chọn họ sau một đêm cầu nguyện. Dường như không có tiêu chuẩn nào khác trong việc chọn lựa này ngoài việc cầu nguyện, sự đối thoại với Chúa Cha. Rồi cứ xét theo cách cư xử của những người được chọn ấy, dường như đó không phải là một chọn lựa tốt nhất; vì tất cả họ bỏ chạy, họ để Chúa một mình trong Cuộc Khổ nạn; nhưng chính điều đó, đặc biệt là sự hiện diện của Giuđa, kẻ phản bội trong tương lai, chứng tỏ rằng những tên ấy đã được ghi trong kế hoạch của Thiên Chúa.
Lời cầu nguyện dành cho các bạn hữu của Chúa tiếp tục tái diễn trong cuộc đời của Chúa Giêsu. Có vài lần các tông đồ làm cho Chúa lo âu, nhưng Chúa Giêsu, – như Ngài đã nhận lãnh họ từ Chúa Cha, – vẫn mang họ trong tâm hồn, cả trong những sai lầm của họ cũng như trong những sa ngã. Trong tất cả những điều đó, chúng ta khám phá Chúa Giêsu là người Thầy và người bạn của họ, luôn sẵn sàng kiên nhẫn chờ đợi sự hoán cải của môn đệ. Tột đỉnh của sự chờ đợi kiên nhẫn ấy là “tấm màn” tình thương mà Chúa Giêsu giăng lên quanh Phêrô. Trong Bữa Tiệc ly, Chúa nói với Phêrô: “Simon, Simon, này đây Satan sàng các con như sàng gạo; nhưng Thầy đã cầu nguyện cho con, để lòng tin của con không bị thiếu sót. Phần con, một khi hoán cải, con sẽ củng cố các anh em của con” (Lc 22,31-32). Thật ấn tượng khi biết rằng vào lúc đó, trong thời điểm yếu đuối, tình thương của Chúa Giêsu không hề ngừng nghỉ.
– “Nhưng thưa cha, nếu con mắc tội trọng, Chúa Giêsu có yêu con không?”
– “Có”
– “Và Chúa Giêsu có tiếp tục yêu thương con không?”
– “Có”
– “Nhưng nếu con còn làm những điều tồi tệ hơn và phạm nhiều tội lỗi… liệu Chúa Giêsu có còn yêu con không?”
– “Vẫn có”.
Tình yêu và lời cầu nguyện của Chúa Giêsu dành cho mỗi người chúng ta không ngừng, không ngừng, nhưng trở nên mãnh liệt hơn, và chúng ta là trung tâm lời cầu nguyện của Người! Chúng ta phải luôn ghi nhớ điều này: Chúa Giêsu cầu nguyện cho tôi, bây giờ Người đang cầu nguyện trước Chúa Cha và làm cho Chúa Cha nhìn thấy những vết thương Người mang theo mình, để cho Chúa Cha thấy giá cứu độ mà Người dành cho chúng ta, đó là tình yêu Người dành cho chúng ta. Nhưng trong lúc này, mỗi người chúng ta hãy suy nghĩ: trong lúc này, Chúa Giêsu có đang cầu nguyện cho tôi không? Có. Đây là một sự chắc chắn lớn lao mà chúng ta phải có.
Lời cầu nguyện của Chúa Giêsu trở lại đúng lúc quan trọng, trong hành trình của Ngài, khi kiểm chứng niềm tin của các môn đệ. Chúng ta cũng nghe thánh sử Luca nói tiếp: “Một hôm, Chúa Giêsu ở một nơi thanh vắng để cầu nguyện. Các môn đệ ở với Ngài và Ngài đặt câu hỏi đối với họ: “Dân chúng bảo Thầy là ai? Họ đáp: “Người thì nói là Gioan Tẩy Giả, những người khác thì nói là Elia, những người khác nữa cho là một trong các ngôn sứ xưa kia tái sinh”. Bấy giờ, Chúa hỏi họ: “Phần các con, các con bảo Thầy là ai?”. Phêrô đáp: “Là Đức Kitô của Thiên Chúa [Đấng được Thiên Chúa xức dầu]”. Chúa nghiêm khắc truyền cho các ông không được nói với ai” (9,18-21). Những bước ngoặt lớn lao trong sứ mạng của Chúa Giêsu luôn được bắt đầu bằng lời cầu nguyện, nhưng không phải chỉ thoáng qua mà còn bằng lời cầu nguyện mãnh liệt và kéo dài. Luôn có lời cầu nguyện trong những khoảnh khắc đó. Sự kiểm chứng đức tin như thế có vẻ là một mục tiêu nhưng là một sự canh tân điểm khởi hành đối với các môn đệ, vì từ đó trở đi, giống như thể Chúa Giêsu gia tăng một cường độ trong sứ mạng của Ngài. Ngài nói với họ một cách công khai về cuộc khổ nạn, cái chết và sự sống lại của Ngài.
Trong viễn tượng đó, phản ứng tự nhiên nơi các môn đệ là xa tránh khổ giá, cũng như nơi chúng ta là những người đọc Tin mừng, lời cầu nguyện là nguồn mạch ánh sáng và sức mạnh. Cần cầu nguyện khẩn trương hơn, mỗi khi con đường dẫn lên dốc.
Và thực vậy, sau khi tiên báo cho các môn điều đang chờ đợi Ngài tại Giêrusalem, có biến cố Chúa hiển dung. “Chúa Giêsu mang theo Ngài các ông Phêrô, Gioan và Giacôbê và lên núi cầu nguyện. Trong lúc Ngài cầu nguyện, mặt Ngài biến dạng, và áo Ngài trắng như tuyết, sáng ngời. Và này đây có hai người truyện vãn với Ngài: đó là Môisê và Elia, hiện ra trong vinh quang, nói về cuộc xuất hành Ngài sắp thực hiện tại Giêrusalem (Lc 9,28-31) tức là Cuộc Khổ Nạn. Vì thế, sự biểu lộ trước vinh quang của Chúa Giêsu diễn ra trong khi cầu nguyện, trong khi Con Người chìm đắm trong sự hiệp thông với Chúa Cha và hoàn toàn tuân phục thánh ý yêu thương của Chúa Cha, kế hoạch cứu độ của Cha. Và từ việc cầu nguyện ấy, nảy sinh một lời rõ ràng đối với ba môn đệ chứng kiến: “Này là Con Ta, Người được tuyển chọn, các ngươi hãy nghe lời Người” (Lc 9,35).
Từ hành trình vắn tắt này qua Tin mừng, chúng ta nhận thấy rằng Chúa Giêsu không những muốn chúng ta cầu nguyện như Ngài cầu nguyện, nhưng còn đảm bảo cho chúng ta rằng cho dù những toan tính cầu nguyện của chúng ta hoàn toàn là hư vô và vô hiệu, chúng ta luôn có thể cậy dựa vào lời cầu nguyện của Chúa Giêsu.
Sách Giáo lý Hội Thánh Công Giáo dạy rằng: “Lời cầu nguyện của Chúa Giêsu làm cho lời cầu nguyện Kitô giáo trở thành lời cầu xin hữu hiệu. Người là mẫu gương cho chúng ta; Người cầu nguyện trong chúng ta và cùng với chúng ta” (n. 2740). Và tiếp đó, sách Giáo lý dạy thêm rằng: “Chúa Giêsu còn đứng vào vị trí của chúng ta để cầu nguyện cho chúng ta. Mọi lời cầu xin của chúng ta đều được thâu tóm lại, một lần cho mãi mãi, trong tiếng kêu lớn của Người trên Thập Giá và đã được Chúa Cha nhậm lời trong cuộc Phục sinh của Người; và do đó, Người không ngừng chuyển cầu cho chúng ta bên Chúa Cha” (n.2741).
Chúng ta phải ý thức điều này: Chúa Giêsu cầu nguyện cho tôi. Có lần, một vị giám mục tốt lành nói với tôi rằng trong một thời điểm rất tồi tệ của cuộc đời ngài, một thử thách lớn, một khoảnh khắc đen tối, ngài nhìn lên Vương cung thánh đường và thấy được dòng chữ: “Phêrô! Thầy sẽ cầu nguyện cho con”. Và điều này đã mang lại cho vị giám mục ấy sức mạnh và sự bình an. Và điều này xảy ra mỗi khi mỗi người chúng ta biết rằng Chúa Giêsu cầu nguyện cho mình. Chúa Giêsu cầu nguyện cho chúng ta. Trong khoảnh khắc này, ngay trong khoảnh khắc này. Xin hãy ghi nhớ và lặp lại điều này. Khi có một khó khăn, khi anh chị em cảm thấy bị lôi kéo bởi những điều xao lãng thì hãy nhớ: Chúa Giêsu đang cầu nguyện cho tôi.
– “Nhưng thưa cha, điều này có đúng không?”
– “Đúng”
Chính Chúa Giêsu đã nói điều đó. Chúng ta đừng quên rằng điều nâng đỡ mỗi người chúng ta trong cuộc sống là lời cầu nguyện của Chúa Giêsu cho mỗi người chúng ta, cùng với mỗi người chúng ta, với tên từng người chúng ta, Người hiện diện trước Chúa Cha, cho Chúa Cha thấy những vết thương mà Người chịu làm giá cứu rỗi của chúng ta.
Ngay cả khi những lời cầu nguyện của chúng ta chỉ là lắp bắp, nếu chúng bị tổn hại bởi một đức tin dao động, chúng ta không bao giờ ngừng tin tưởng vào Chúa Giêsu: Tôi không biết cầu nguyện nhưng Chúa Giêsu cầu nguyện cho tôi. Được hỗ trợ bởi lời cầu nguyện của Chúa Giêsu, những lời cầu nguyện rụt rè của chúng ta đậu trên đôi cánh phượng hoàng và bay lên Thiên đàng. Đừng quên: Chúa Giêsu đang cầu nguyện cho tôi. Hiện nay! Lúc này. Trong lúc thử thách, trong lúc tội lỗi, ngay cả trong lúc đó, Chúa Giêsu đang cầu nguyện cho tôi với biết bao tình yêu.
Nguồn: vietnamese.rvasia
Ngày 09.06.2021
Bài 37: Sự kiên trì trong tình yêu
Anh chị em thân mến,
Trong bài giáo lý áp chót về cầu nguyện này, chúng ta sẽ nói về sự kiên trì cầu nguyện. Đó là một lời mời gọi, thật sự là một lệnh truyền từ Kinh Thánh. Hành trình thiêng liêng của Tín hữu hành hương người Nga bắt đầu khi ông đọc thấy một câu từ thư thứ nhất của thánh Phaolô gửi cộng đoàn Thêxalônica: “Cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh. Anh em hãy làm như vậy, đó là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Giêsu Kitô.” Những lời của thánh Tông đồ đã đánh động người đàn ông và ông tự hỏi làm thế nào có thể cầu nguyện không ngừng, vì cuộc sống của chúng ta bị chia cắt thành rất nhiều khoảnh khắc khác nhau, không phải lúc nào cũng có thể tập trung được. Từ câu hỏi này, ông bắt đầu cuộc tìm kiếm của mình, và ông đã khám phá điều được gọi là lời cầu nguyện của trái tim. Nó bao gồm việc lặp lại với đức tin: “Lạy Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, xin thương xót con, một kẻ tội lỗi!”.
(Đức Thánh Cha yêu cầu các tín hữu hiện diện cùng lặp lại lời cầu nguyện trên).
Đây là một lời cầu nguyện đơn giản nhưng thật hay. Một lời cầu nguyện, từng chút một, tự thích ứng với nhịp thở và kéo dài suốt cả ngày.
(Đức Thánh Cha lại yêu cầu các tín hữu lặp lại thật lớn lời cầu nguyện: “Lạy Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, xin thương xót con, một kẻ tội lỗi!”)
Thật vậy, hơi thở không bao giờ ngừng, ngay cả khi chúng ta ngủ; và cầu nguyện là hơi thở của cuộc sống.
Vậy làm thế nào để luôn có thể duy trì trạng thái cầu nguyện? Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo cống hiến cho chúng ta những trích dẫn tuyệt vời từ lịch sử tu đức, những trích dẫn nhấn mạnh đến nhu cầu cầu nguyện liên tục, điều có thể là điểm tựa của cuộc sống của Kitô hữu. Tôi sẽ xem xét một số trích dẫn này.
Cầu nguyện: ngọn lửa thiêng cháy trong tâm hồn
Trước hết là lời của Đan sĩ Evagrius Ponticus khẳng định: “Chúng ta không bị yêu cầu làm việc, tỉnh thức và ăn chay không ngừng, nhưng cầu nguyện không ngừng là quy luật của chúng ta” (2742). Tâm hồn luôn cầu nguyện. Vì vậy, có một sự hăng hái nhiệt thành trong đời sống Kitô hữu, điều không được bao giờ mất đi. Nó giống như ngọn lửa thiêng được lưu giữ trong các ngôi đền cổ, liên tục cháy sáng và các tư tế có nhiệm vụ giữ cho nó cháy. Vì vậy, trong chúng ta cũng phải có một ngọn lửa thiêng, ngọn lửa cháy liên tục và không gì có thể dập tắt được. Và điều đó không hề dễ dàng, nhưng nó phải như vậy.
Trong khi đó, Thánh Gioan Kim khẩu, một mục tử chú ý đến đời sống thực tế, đã giảng là cần cầu nguyện: “Ngay cả khi đi bộ ở nơi công cộng hoặc đi dạo một mình, hoặc ngồi trong cửa hàng của bạn, khi mua bán, hoặc ngay cả khi đang nấu ăn” (2743). Những lời cầu nguyện đơn sơ như: “Lạy Chúa, xin thương xót chúng con”, “Lạy Chúa, xin giúp con”. Vì vậy, cầu nguyện là một trang nhạc, nơi chúng ta viết lên những giai điệu của cuộc đời mình. Nó không trái ngược với công việc hàng ngày, nó không mâu thuẫn với nhiều nghĩa vụ và nhiệm vụ bé nhỏ; nếu có, nó là nơi mà mỗi hành động tìm thấy ý nghĩa, lý do và sự bình yên của nó.
Thiên Chúa chăm lo cho cả vũ trụ vẫn có giờ nhớ đến chúng ta
Chắc chắn là thực hành những nguyên tắc này không phải là điều đơn giản. Một người cha và một người mẹ, bị cuốn vào hàng ngàn công việc, có thể cảm thấy nhớ về một thời điểm trong đời khi mà họ dễ dàng tìm thấy thời gian và không gian thường xuyên để cầu nguyện. Rồi con cái, công việc, cuộc sống gia đình, cha mẹ già yếu… Người ta có ấn tượng rằng sẽ không bao giờ có thể vượt qua được tất cả. Và vì vậy, thật tốt cho chúng ta khi nghĩ rằng, Thiên Chúa, Cha của chúng ta, Đấng phải chăm sóc tất cả vũ trụ, luôn nhớ đến mỗi người chúng ta. Vì vậy, chúng ta cũng phải luôn nhớ đến Ngài!
Cân bằng nội tâm giữa cầu nguyện và công việc
Chúng ta cũng có thể nhớ rằng, trong đời sống đan tu Kitô giáo, công việc luôn được đánh giá cao, không chỉ vì bổn phận đạo đức chăm lo cho chính mình và người khác, mà còn vì một loại cân bằng nội tâm: thật là nguy hiểm cho con người khi nuôi dưỡng một sở thích quá trừu tượng đến nỗi mất liên lạc với thực tế. Công việc giúp chúng ta tiếp xúc với thực tế. Đôi bàn tay chắp lại cầu nguyện của vị đan sĩ mang vết chai của những người cầm xẻng, cầm cuốc. Trong Phúc âm thánh Luca (Lc 10, 38-42), khi nói với Thánh Martha rằng, điều duy nhất thực sự cần thiết là lắng nghe Thiên Chúa, Chúa Giêsu không có ý chê bai nhiều công việc mà bà đã rất cố gắng làm.
Mọi thứ trong con người đều “có đôi”: cơ thể chúng ta cân xứng, chúng ta có hai cánh tay, hai con mắt, hai bàn tay… Vì vậy, công việc và cầu nguyện cũng bổ sung cho nhau. Cầu nguyện – vốn là “hơi thở” của mọi thứ – luôn là bối cảnh sống động của công việc, ngay cả trong những thời điểm mà điều này không rõ ràng. Thật là thiếu chiều kích con người, khi bạn mải mê với công việc đến mức bạn không còn có thể tìm thấy thời gian cho việc cầu nguyện.
Đồng thời, một lời cầu nguyện xa lạ với cuộc sống không phải là lời cầu nguyện ý nghĩa. Một lời cầu nguyện tách rời bản thân khỏi sự cụ thể của cuộc sống, sẽ trở thành duy tâm, hay tệ hơn, trở thành duy nghi lễ. Chúng ta hãy nhớ rằng, sau khi tỏ cho các môn đệ thấy vinh quang của Người trên Núi Tabor, Chúa Giêsu không muốn kéo dài giây phút hạnh phúc đó, nhưng ngược lại, Chúa cùng họ xuống núi và tiếp tục cuộc hành trình hàng ngày. Bởi vì kinh nghiệm đó phải ở lại trong tâm hồn họ như ánh sáng và sức mạnh của đức tin của họ, là ánh sáng và sức mạnh cho họ trong những ngày tương lai, những ngày trong cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu. Bằng cách này, thời gian dành riêng để ở lại với Chúa làm sống lại đức tin, giúp chúng ta trong thực tế của cuộc sống, và đến lượt mình, đức tin nuôi dưỡng sự cầu nguyện, không bị gián đoạn. Trong sự tuần hoàn giữa đức tin, đời sống và việc cầu nguyện này, người ta giữ cho ngọn lửa đời sống Kitô hữu mà Thiên Chúa mong đợi nơi mỗi người chúng ta cháy sáng.
Và chúng ta cùng lập lại lời cầu nguyện đơn giản, nhưng rất tốt nếu chúng ta lặp lại trong ngày sống: “Lạy Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi!”. Lặp lại lời cầu nguyện này không ngừng sẽ giúp chúng ta kết hiệp với Chúa Giêsu.
Nguồn: vaticannews.va/vi/
Ngày 16.06.2021
Bài 38: Lời Cầu nguyện Vượt Qua của Chúa Giêsu dành cho chúng ta
Anh chị em thân mến,
Chúng ta đã nhắc lại nhiều lần trong loạt bài giáo lý này rằng cầu nguyện là một trong những nét đặc trưng rõ ràng nhất trong cuộc đời của Chúa Giêsu. Chúa cầu nguyện và cầu nguyện rất nhiều. Trong quá trình thực hiện sứ mệnh, Chúa Giêsu đã đắm mình trong cầu nguyện, bởi vì cuộc đối thoại với Chúa Cha là cốt lõi sâu sắc của tất cả cuộc sống của Người.
Chúa Giêsu mang lại ơn cứu độ toàn diện
Các sách Tin Mừng làm chứng rằng, lời cầu nguyện của Chúa Giêsu càng trở nên mãnh liệt và nhiều hơn trong những giờ phút của cuộc Thương khó và sự chết của Người. Thật vậy, những sự kiện cao điểm trong cuộc đời của Người tạo nên cốt lõi trung tâm của lời rao giảng Kitô giáo: những giờ phút cuối cùng Chúa Giêsu sống tại Giêrusalem là trọng tâm của Tin Mừng, không chỉ vì các Thánh sử dành nhiều chỗ hơn cho tường thuật này, nhưng còn vì sự kiện Chúa chết và Phục Sinh – như một tia chớp – chiếu sáng phần còn lại trong cuộc đời của Chúa. Chúa không phải là một nhà từ thiện chăm lo cho những đau khổ và bệnh tật của con người: Người là như thế và còn hơn thế nữa. Nơi Người không chỉ có sự tốt lành: còn có ơn cứu độ, không phải ơn cứu độ theo một thời kỳ – là kiểu có thể cứu khỏi bệnh tật hay một khoảnh khắc tuyệt vọng – nhưng là ơn cứu độ toàn diện, ơn cứu độ của Đấng Thiên sai, mang lại hy vọng vào chiến thắng vĩnh viễn của sự sống trên sự chết.
Gần gũi và tín thác vào Chúa Cha
Do đó, trong những ngày cuối của lễ Vượt Qua cuối cùng của Chúa Giêsu, chúng ta thấy Người hoàn toàn đắm mình trong cầu nguyện. Chúa cầu nguyện rất nhiều trong vườn Ghếtsêmani, bị đau khổ thân xác hành hạ. Tuy nhiên, chính trong giây phút đó, Chúa Giêsu đã gọi Thiên Chúa là “Abba”, là cha (Mc 14, 36). Từ ngữ tiếng A-ram này, ngôn ngữ của Chúa Giêsu, thể hiện sự thân mật và tin cậy. Chính khi cảm thấy bóng tối bao trùm quanh mình, Chúa Giêsu vượt qua nó bằng một từ đơn sơ: Abba! Cha ơi!
Chúa Giêsu cũng cầu nguyện trên Thánh giá, bị bao phủ trong bóng tối của sự im lặng của Thiên Chúa. Và một lần nữa, từ “Cha” lại xuất hiện trên môi Người. Đó là lời cầu nguyện tha thiết nhất, vì trên thập giá, Chúa Giêsu là Đấng chuyển cầu tuyệt đối: Chúa cầu nguyện cho người khác, cho tất cả mọi người, ngay cả cho những người đã lên án Người, mặc dù không một ai ngoài một tên vô lại đáng thương đứng về phía Người. Mọi người chống lại Chúa hoặc thờ ơ với Người. Chỉ có kẻ bất lương đó nhận ra Đấng quyền năng. “Lạy Cha, xin tha cho họ; vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23, 34). Giữa bi kịch, trong nỗi đau đớn tột cùng của tâm hồn và thể xác, Chúa Giêsu cầu nguyện bằng những lời Thánh vịnh; cùng với những người nghèo khổ trên thế giới, đặc biệt là những người bị mọi người lãng quên, Chúa thốt lên những lời bi thương của Thánh vịnh 22: “Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Chúa bỏ con?” (câu 2). Chúa cảm thấy bị bỏ rơi và Người đã cầu nguyện. Thánh giá là sự thành toàn ân sủng của Chúa Cha, Đấng ban tặng tình yêu; nghĩa là ơn cứu độ của chúng ta được thực hiện. Chúa Giêsu cũng khẩn cầu Chúa Cha: “Thiên Chúa của con”, “Lạy Cha, con phó linh hồn con trong tay Cha”: tất cả những điều xảy ra trong 3 tiếng đồng hồ trên Thánh giá đều là lời cầu nguyện.
Phục Sinh là câu trả lời của Chúa Cha
Do đó, Chúa Giêsu cầu nguyện trong những giờ phút quyết định của cuộc thương khó và của sự chết. Chúa Cha đã nhận lời Người bằng sự Phục Sinh. Lời cầu nguyện của Chúa Giêsu thật mãnh liệt, lời cầu nguyện của Chúa Giêsu là độc nhất và cũng trở thành kiểu mẫu cho lời cầu nguyện của chúng ta. Chúa Giêsu đã cầu nguyện cho mọi người, Người cũng đã cầu nguyện cho tôi, cho mỗi người trong anh chị em. Mỗi người chúng ta có thể nói: “Trên Thánh giá, Chúa Giêsu đã cầu nguyện cho tôi”. Chúa Giêsu có thể nói với chúng ta, với mỗi người chúng ta: “Ta đã cầu nguyện cho con, trong bữa Tiệc Ly, trên Thánh Giá.” Ngay cả trong nỗi đau nhất trong những đau khổ của chúng ta, chúng ta không bao giờ cô đơn. Lời cầu nguyện của Chúa Giêsu ở với chúng ta.
Anh chị em có thể hỏi cha: “Thưa Cha, bây giờ chúng con đang lắng nghe đây, Chúa Giêsu có cầu nguyện cho chúng con không?”. Vâng, Chúa Giêsu tiếp tục cầu nguyện để lời của Người có thể giúp chúng ta tiếp tục tiến về phía trước. Nhưng hãy cầu nguyện và nhớ rằng Người cầu nguyện cho chúng ta.
Và đối với cha đây dường như là điều đẹp đẽ nhất để ghi nhớ. Đây là bài giáo lý cuối cùng của loạt bài về cầu nguyện này: nhớ đến ân sủng không chỉ chúng ta cầu nguyện mà còn có thể nói là chúng ta đã được “cầu nguyện cho”. Chúng ta đã được chào đón vào cuộc đối thoại của Chúa Giêsu với Chúa Cha, trong sự hiệp thông với Chúa Thánh Thần. Chúa Giêsu cầu nguyện cho chính mỗi người chúng ta: mỗi người chúng ta có thể mang điều này vào lòng. Chúng ta không được quên điều này. Ngay cả trong những thời điểm tồi tệ nhất. Chúng ta đã được chào đón vào cuộc đối thoại của Chúa Giêsu với Chúa Cha, trong sự hiệp thông với Chúa Thánh Thần.
Chúng ta được ở trong tâm trí của Chúa Giêsu Kitô, và ngay cả trong giờ chịu khổ nạn, cái chết và sự phục sinh của Người, mọi sự đều được hiến dâng cho chúng ta. Và như vậy, với lời cầu nguyện và với cuộc sống, tất cả những gì còn lại chỉ là có lòng can đảm và hy vọng, và với lòng can đảm và hy vọng này, cảm nhận sâu sắc lời cầu nguyện của Chúa Giêsu và tiếp tục tiến bước: để cuộc sống của chúng ta có thể là một cuộc sống mang lại vinh quang với Thiên Chúa khi biết rằng Người cầu nguyện cho tôi với Chúa Cha, rằng Chúa Giêsu cầu nguyện cho tôi.
Nguồn: vaticannews.va/vi
Có thể bạn quan tâm
Thánh lễ tạ ơn và Công bố Quyết định Thành lập Giáo họ..
Th11
Thánh lễ tạ ơn hồng ân thánh hiến tại Cộng đoàn MTG Chân..
Th11
Suy Niệm Chúa Nhật XXXIV Thường Niên B – Chúa Giêsu Kitô, Vua..
Th11
Đức Thánh Cha Thành Lập Ủy Ban Tòa Thánh Về Ngày Thế Giới..
Th11
Ủy Ban Mục Vụ Di Dân Gặp Mặt Tại Hà Nội
Th11
Ngày 22/11: Thánh Cêcilia, trinh nữ tử đạo
Th11
Ngày 21/11: Đức Maria dâng mình trong đền thờ
Th11
Hồng ân đêm Diễn Nguyện kỷ niệm 340 năm Hiện Diện, 100 năm..
Th11
Sứ thần Tòa Thánh tại Ucraina: 1.000 ngày chiến tranh, số người chết..
Th11
Giải Đáp Thắc Mắc Cho Người Trẻ: Bài 147 – Say Nắng Người..
Th11
Sứ Mạng Của Giáo Viên Công Giáo
Th11
Bài Hát Cộng Đồng Lễ Chúa Kitô Vua Năm B – 2024
Th11
Đức Thánh Cha thiết lập ngày lễ các thánh, chân phước, những người..
Th11
Thánh Lễ Thêm Sức Tại Giáo Xứ Đồng Troóc
Th11
Vlog Năm Thánh 1
Th11
Thư Gửi Anh Chị Em Giáo Chức Công Giáo Nhân Ngày Nhà Giáo..
Th11
Bế Mạc Tuần Tĩnh Tâm Năm 2024 Của Linh Mục Đoàn Giáo Phận..
Th11
Tháng 11 – Hiệp Thông Trong Tình Yêu
Th11
Chủ tịch Hội đồng Giám mục Nicaragua bị trục xuất sang Guatemala
Th11
VPTGM-GPHT: Thư Rao Truyền Chức Phó Tế
Th11