Niềm Hy Vọng Hồng Phúc (Lễ Các Đẳng Linh Hồn 02/11)

40 lượt xem

NIỀM HY VỌNG HỒNG PHÚC

Lm. Petrus Lửa Hồng

Những người hành hương trong Niềm hy vọng” là khẩu hiểu của Năm thánh 2025 và đó cũng là hướng đi của toàn thể thụ tạo, nhất là nhưng Kitô hữu trong hành trình tiến về cùng đích của mình. Cách đặc biệt, đây là thời gian chúng ta sống phách mạnh của niềm hy vọng: Tháng các linh hồn – sống mầu nhiệm các thánh thông cộng; những tuần cuối của Năm phụng vụ mà chóp đỉnh là lễ Chúa Kitô Vua – cùng đích của toàn thể vũ hoàn; Năm Phụng vụ mới với Mùa vọng, sống niềm mong đợi niềm hy vọng hồng phúc.

Truyền thống của Giáo Hội đã luôn luôn khích lệ cầu nguyện cho những người đã chết, đặc biệt bằng cách cống hiến cho họ việc cử hành thánh thể: thánh lễ là sự trợ giúp tinh thần tốt nhất mà chúng ta có thể ban tặng cho các linh hồn, đặc biệt các linh hồn bị bỏ rơi. Nền tảng thánh lễ cầu cho các linh hồn nằm trong sự hiệp thông của Thân Mình Mầu Nhiệm Chúa Kitô. Như Công Đồng Vaticanô II đã nhấn mạnh: “Giáo hội lữ hành trên trần gian ý thức đựơc sự hiệp thông này của tất cả Thân Mình Mầu Nhiệm của Chúa Giêsu Kitô, ngay từ các thời kỳ đầu của Kitô giáo đã vun trồng với lòng đạo hạnh lớn lao việc tưởng nhớ các người đã qua đời” (LG 50).

  1. Lễ Linh hồn, nguồn gốc và ý nghĩa

Theo sách vở ghi lại, thánh Odilo (962- 1048), viện phụ đan viện Cluny là người đạo đức, thường cầu nguyện, hi sinh, và dâng lễ cầu cho các linh hồn đã qua đời. Viện phụ Odilo đã lập lễ Cầu hồn vào ngày 2 tháng 11 và trước hết cử hành trong đan viện Cluny của ngài vào năm 998. Về sau lễ cầu hồn đã được truyền sang nước Pháp, và tới giữa thế kỉ 10, Đức Gioan XIV đã lập lễ Cầu hồn trong Giáo hội Rôma.

Từ thời đó, nhiều nơi đã có thói quen cầu nguyện tuần chín ngày cho các linh hồn, họ đi thăm viếng, sửa mồ cha ông. Vào buổi chiều lễ Các Thánh, có những người đi từng nhà xin quà cho các linh hồn, họ hát những bài ca cổ truyền mời gọi cầu cho các linh hồn mau ra khỏi Luyện ngục.

Đối với tín hữu tại Việt nam, người ta thường sửa mộ phần của tổ tiên, cha mẹ vào dịp Tết Nguyên Đán như một nghĩa của của hiếu đạo, mà họ còn sống lòng hiếu kính mọi phút giây trong Gia đình Giáo hội, nhất là Thánh Các linh hồn, con cháu sống tình con thảo với các bậc tổ tiên, cách đặc biệt trong những ngày đầu tháng 11 này: Lễ các thánh và lễ linh hồn.

Ngày hôm qua chúng ta đã cử hành lễ trọng Các Thánh và hôm nay phung vụ mời gọi chúng ta tưởng nhớ các tín hữu đã qua đời. Hai ngày lễ này gắn liền mật thiết với nhau, cũng như niềm vui và nước mắt tìm thấy nơi Chúa Giêsu Kitô một tổng hơp là nền tảng đức tin và niềm hy vọng của chúng ta. Thật thế, một đàng, Giáo Hội lữ hành trong lịch sử vui mừng vì sự bầu cử của các Thánh và các Chân phước nâng đỡ Giáo hội trong sứ mệnh loan báo Tin mừng; đàng khác, cũng như Chúa Giêsu, Giáo hội chia sẻ tiếng khóc của người đau khổ vì xa rời các người thân yêu, và cũng như Người và nhờ Người Giáo hội làm vang lên lời cám tạ Thiên Chúa Cha, là Đấng đã giải thoát chúng ta khỏi ách thống trị của tội lỗi và cái chết

Giữa ngày hôm qua và hôm nay biết bao nhiêu người đi viếng thăm nghĩa trang là “nơi an nghỉ” chờ việc đánh thức sau cùng. Thật là đẹp, khi nghĩ rằng chính Chúa Giêsu sẽ đánh thức chúng ta dậy. Chính Chúa Giêsu đã vén mở cho thấy rằng cái chết của thân xác cũng giống như một giấc ngủ, từ đó Người đánh thức chúng ta. Với niềm tin này chúng ta dừng lại bên mộ của những người thân yêu, của những ai đã yêu thương chúng ta và đã làm điều lành cho chúng ta và để chân nhận về thân phận người – hữu thể nhân linh, vượt trên sự hữu hạn, lữ hành trong niềm hy vọng hồng phúc.

  1. Con người vượt trên sự hữu hạn của mình

Ngày lễ hôm nay không chỉ mời gọi chúng ta sống tình hiệp thông, liên kết với những thành phần của Giáo Hội đang trong cuộc thanh luyện để cầu nguyện, hy sinh giúp họ được giải thoát, nhưng còn là lời nhắc nhở chúng ta con người là hữu thể vượt trên sự hữu hạn của chính mình, rằng “cái chết không phải là tiếng nói chung cuộc trên thân phận con người”.

Dẫu biết rằng con người được tạo tác từ bùn đất, phải đi vào vong quay nghiệt ngã sinh – lão – bệnh – tử. “Thân cát bụi” lại trở về với “cát bụi” là một thực tại, thực tại não nề, thất vọng, đối với những ai không tin, không có niềm hy vọng hồng phúc, còn đối với những người có lương tri, với chúng ta, thực tại ấy là huyền nhiệm của phận người: nhân linh ư vận vật, được tạo tác để sống muôn đời, vì “Chết là thể phách, còn là tinh anh” (Nguyễn Du); sống là gửi, là tạm, thác là về với cùng đích, với cuội nguồn. Quả vây, con người được dựng nên từ tro bụi, nhưng đã được Thiên Chúa nhào nắn thành một tuyệt tác, trở nên “hình ảnh Thiên Chúa”, để bước vào đời, bước vào cõi linh thiêng. Tác giả sách Khôn ngoan minh định chân lý này:

“Thiên Chúa không làm ra cái chết, chẳng vui gì khi sinh mạng tiêu vong. Vì Người đã sáng tạo muôn loài cho chúng hiện hữu” (Kh 1,13-15). “Quả vậy, Thiên Chúa đa sáng tạo con người cho họ được trường tồn bất diệt. Họ được Người dựng nên làm hình ảnh của bản tính Người… (Kh 2,23-24).

Thiên Chúa tạo dựng nên con người để họ được sống, được ở với Người. Đó là nghĩa nghĩa của phẩm giá nhân linh, hình ảnh của Thiên Chúa. Đó là niềm hy vọng của những người lữ hành trong niềm mong ngóng hạnh phúc của cùng đích. Và như thế, cái chết là cánh cửa dẫn tới sự sống bất tận như thánh Phaolô xãc tín: “Đối với tôi, sống là Đức Kitô, chết là một mối lợi” (Pl 1,21). Và như thế, chết là tiếng gọi yêu thương đi về với cùng đích.

  1. Niềm hy vọng hồng phúc nơi Thiên Chúa

Sở dĩ chúng ta nói rằng chết không phải là tiếng nói chung cuộc trên thân phận con người là bởi chúng ta đặt niềm hy vọng vào Thiên Chúa Hằng Sống. Gióp, trong khổ lụy nhân sinh đã nói lên niềm xác tín ấy, niềm xác tín mà nhạc sỹ Ân Đức đã viết lên: “Tôi tin rằng Đấng cứu chuộc tôi hằng sống, và ngày tận thế, tôi sẽ từ bụi đất sống lại, để với thân thể của tôi chiêm ngưỡng chính Người chứ không ai khác” (G 19,27).

Kinh Tiền Tụng 1 lễ cầu hồn diễn tả niềm hy vọng của dân lữ hành: “Vì lạy Chúa, đối với các tín hữu Chúa, sự sống thay đổi chứ không mất đi, và khi nương náu ở trần gian này bị hủy diệt tiêu tan, thì lại được một chỗ ở vĩnh cửu trên trời”. Đó là niềm niềm tin, niềm trông cậy của chúng ta. Đức Phanxicô dạy:

Việc tưởng niệm những người quá cố, việc săn sóc mồ mả và các thánh lễ cầu hồn không chỉ là nghĩa cử biết ơn, báo hiếu, phù giúp người quá cô, nhưng là chứng tá của niềm hy vọng tin tưởng, đâm rễ sâu trong xác tín rằng cái chết là cửa ngõ dẫn vào cõi sống vĩnh cửu. Bởi vì con người được được gọi đi vào hiện hữu, giống hình ảnh Thiên Chúa, có nguồn gốc và sự thành toàn nơi Thiên Chúa”.[1]

Đó là niềm hy vọng hồng phúc của chúng ta, niềm hy vọng được đặt nền tảng nơi Thiên Chúa, được thành toàn trong Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã mặc lấy thân phận hay chết của con người, qua mầu nhiệm tử nạn và phục sinh, Người đã mở lối cho chúng đường về quê trời. Người là Đấng “khai mở và kiện toàn đức tin của chúng ta” (Dt 12,2). Thánh Phaolô trong thứ gửi tín hữu Rôma đã minh định: “Nhờ Phép Rửa trong sự chết và phục sinh của Đức Kitô, và nhờ sự vinh hiển của Người, chúng được hợp nhất trong sự sống vĩnh cửu của Đấng đã đánh bại thần chết (x. Rm 6,3-9) và Ngài khẳng định:

Đức Kitô đã trỗi dậy từ cõi chết, ​mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu. […] mở đường là Đức Kitô, rồi khi Đức Kitô ​quang lâm thì đến lượt những kẻ thuộc về Người. Sau đó mọi sự đều hoàn tất, khi Người đã tiêu diệt hết mọi quản thần, mọi quyền thần và mọi dũng thần, rồi trao vương quyền lại cho Thiên Chúa là Cha.

Thật vậy, Đức Kitô phải nắm vương quyền cho đến khi Thiên Chúa ​đặt mọi thù địch dưới chân Người. Thù địch cuối cùng bị tiêu diệt là sự chết” (1Cr 15,20-26)

Cầu nguyện cho các tín hữu, những người đặt niềm hy vọng vào Thiên Chúa hằng sống và đang tiến bước trong về cùng Người, chúng ta, những người lữ hành cầu nguyện cho những người đã khuất, “bởi biết chắc chắn rằng có sự hiệp thông như thế trong toàn Nhiệm Thể của Chúa Giêsu Kitô, nên ngay từ buổi đầu của Kitô giáo, Hội thánh lữ hành đã hết sức thành kính nhớ đến những người đã qua đời,  và bời vì dâng hy lễ cho những người đã chết, để họ được giải thoát khỏi tội lỗi, là một ý nghĩa đạo đức và thánh thiện, nên Giáo hội cũng dâng lời cầu nguyện cho họ. Lời cầu nguyện của chúng ta cho họ không những có thể giúp đỡ họ, mà còn làm cho sự chuyển cầu của họ cho chúng ta nên hữu hiệu” (GLHTCG, 958).

Lạy Thiên Chúa từ bi vô biên, chúng con tín thác cho lòng lành vô cùng của Chúa những ai đã từ bỏ cõi đời này, cách riêng ông bà anh chị em của chúng con, cho sự vĩnh cửu, nơi Chúa chờ đợi toàn nhân loại được cứu chuộc bởi Máu châu báu của Chúa Kitô, Con Chúa, đã chết để chuộc tội chúng con. Xin hãy hướng trên chúng con cái nhìn xót thương của Chúa, nảy sinh từ con tim dịu hiền của Chúa và giúp chúng con bước đi trên con đường thanh tẩy trọn vẹn để có thể đạt tới niềm niềm hy vọng hồng phúc bên Chúa. Amen.

Khi Thần Chết Lên Tiếng

Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương

[Rm 6,3-9; Ga 6,51-59] [Kn 3,1-9; Lc 23,33.39-43][Rm 5,4-11; Ga 17,24-26]

Cử hành lễ các Đẳng Linh Hồn là dịp rất thuận tiện để chúng ta suy tư về cái chết. Trong Kinh Thánh, chúng ta tìm thấy những lời quả quyết khá rõ ràng trong sách Khôn Ngoan:

“Thiên Chúa không làm ra cái chết, chẳng vui gì khi sinh mạng tiêu vong… Quả thế, Thiên Chúa đã sáng tạo con người cho họ được trường tồn bất diệt. Họ được dựng nên làm hình ảnh của bản tính Người. Nhưng chính vì quỷ dữ ganh tị mà cái chết đã xâm nhập thế gian” (Kn 1,13.24).

Từ trích đoạn này, chúng ta hiểu tại sao khi thần chết đến, mọi sự phải kết thúc, mọi sự bị hủy diệt. Theo đó, sự chết xem ra không phải là một điều “tự nhiên” đối với chúng ta. Bởi vì, nó không đến từ Thiên Chúa, nó không nằm trong trật tự tạo thành. Cái chết là kết quả “sự ganh tị của quỷ dữ.” Bởi đó, chúng ta phải chiến đấu chống lại cái chết với tất cả sức mạnh của mình. Khát vọng triền miên của con người “tham sống sợ chết.” Đó là bằng chứng hùng hồn nhất về chân lý con người không được tạo dựng để diệt vong, nhưng để được sống. Chết không phải là hạn từ cuối cùng của cuộc sống. Bài đọc I của thánh lễ này khẳng định lại với chúng ta điều đó:

“Linh hồn người công chính ở trong tay Thiên Chúa, và chẳng cực hình nào đụng tới được nữa” (Kn 3,1).

Tham sống sợ chết là bản năng sinh tồn được khắc sâu trong xương tủy mỗi con người. Có một số nhà nghiên cứu cho rằng mọi hoạt động của con người đều chịu ảnh hưởng và tác động bởi bản năng tính dục. Từ đó, họ giải thích mọi sự theo cái nhìn này, cả trong nghệ thuật và tôn giáo. Nhưng nỗi lo sợ chết còn mạnh hơn cả bản năng tính dục. Chết là điều xảy ra sau cùng, nhưng nó lại tác động trên mọi việc ta làm trước đó. Tất cả mọi người đều kêu lên rằng: “Tôi không muốn chết.”

Như thế, tại sao chúng ta lại được mời gọi hãy suy nghĩ về cái chết khi biết rằng ai cũng phải chết? Câu trả lời rất đơn giản: Bởi vì chúng ta thường trốn tránh nó, không muốn nghĩ về nó, vì mỗi lần như thế làm chúng ta sợ. Chúng ta cũng thường cho rằng chắc mình chưa chết đâu, cái chết chỉ đến với người khác, chứ không đến với mình.

Nhưng việc suy nghĩ về sự chết không cho phép chúng ta gạt nó sang một bên cách dễ dàng. Vì thế, chúng ta tìm mọi cách để ngăn cản nó hoặc là chấp nhận nó. Con người không ngừng tìm kiếm những biện pháp, những phương thuốc để được trường sinh. Một trong số những bài thuốc này được gọi là sinh sản con cái: một người tiếp tục kéo dài sự sống mình bằng cách sinh ra một đứa con. Người khác thì tìm kiếm sự nổi tiếng, để được lưu danh hậu thế. Trong thời đại chúng ta, nhiều người hôm nay lại chạy theo thuyết luân hồi.

Chúng ta phải nói rằng thuyết luân hồi là không thể phù hợp với đức tin Kitô giáo. Nó cho rằng người chết tiếp tục đầu thai và sống một kiếp mới trong một con vật nào đó để tu luyện chờ được giải thoát. Theo niềm tin Kitô giáo, được Kinh Thánh mạc khải:

“Phận con người chỉ chết một lần rồi sau đó chịu phán xét” (Hr 9,27).

Thuyết luân hồi cũng dạy rằng hình thức đầu thai luân hồi là kết quả của một sự sai lầm. Xét cho cùng, luân hồi không thêm gì cho sự sống, nhưng thêm đau khổ; nó không phải là nguồn mang lại sự an ủi, nhưng mang lại sợ hãi. Thuyết luân hồi như một cảnh báo cho mọi người: “Hãy cẩn trọng không làm điều dữ, bởi vì bạn sẽ phải đầu thai để đền tội!” Điều này giống như nói người nào đó trong tù đang gần hoàn tất thời gian giam cầm của mình rằng hình phạt của anh đã được nới rộng, anh phải vượt qua tất cả.

Kitô giáo có cái gì đó rất khác để trình bày liên quan đến vấn đề sự chết. Người Kitô hữu tuyên xưng rằng “một Người đã chết vì mọi người,” nhờ đó cái chết đã bị tiêu diệt; nó không có là một vách tường mà từ đó mọi sự phải lao xuống, nhưng đúng hơn là một chiếc cầu để đi sang bến bờ bên kia – là sự trường tồn, là hạnh phúc đời đời với Thiên Chúa. Tuy nhiên, suy niệm về cái chết là điều rất có ích cho các tín hữu. Bởi vì đặc biệt nó giúp chúng ta sống tốt hơn.

Bạn có bị lo lắng bởi những vấn đề, những khó khăn và những xung đột khi nghĩ về cái chết không? Hãy nghĩ rằng những điều này sẽ xuất hiện lúc chết, nhưng với cái nhìn của đức tin, bạn sẽ thấy chúng có một ý nghĩa khác như thế nào? Chúng ta không phải là cam chịu và thụ động chờ chết. Ngược lại, chúng ta sẽ làm nhiều điều hơn và làm tốt hơn bởi vì chúng ta bình tâm hơn và thanh thoát hơn trước cái chết. Như Thánh Vịnh nói:

“Hãy đếm ngày mình sống ngõ hầu tâm trí được khôn ngoan” (Tv 89,12).

Hãy nhớ đến các linh hồn là những người thân của chúng ta và cầu nguyện cho họ để họ sớm hưởng hạnh phúc với Chúa trên thiên đàng. Amen!

Nguồn: dcvphanxicoxavie.com